Top 10 Loài chim đẹp nhất trên thế giới

Vũ Việt 2522 0 Báo lỗi

Trên thế giới hiện nay có khoảng hơn 10.000 loài chim, trong đó có những loài được thiên nhiên ưu ái có những "bộ cánh" tuyệt đẹp mà chắc chắn ai nhìn thấy ... xem thêm...

  1. Giống chim trĩ vàng (Golden Pheasant) có tên khoa học là chrysolophuspictus, từ lâu được nhiều người chọn nuôi làm cảnh vì mình chúng khoác bộ lông nhiều màu sặc sỡ, với mảng màu vàng óng phủ suốt từ đỉnh đầu đến tận gốc đuôi, riêng phần cổ và cánh đan xen nhiều khoang đặc trưng với các sắc lông đen, vàng, tím, còn phần ức và bụng được phủ kín tuyền sắc lông màu đỏ tươi. Đó là chưa nói đến cái đuôi thật dài với nhiều vân đan xen như trăm ngàn ánh sao lấp lánh tuyệt đẹp.


    Trĩ vàng nhờ có bộ lông sặc sỡ nên từ lâu đã được đánh giá là giống trĩ đẹp nhất so với các giống trĩ khác ở Á Châu, nên thời nào cũng bán được giá cao và có thị trường tiêu thụ mạnh. Thức ăn của chúng ngoài hoang dã chủ yếu là lá cây, chồi non, măng của tre trúc. Chúng cũng ăn côn trùng và nhiều động vật nhỏ… hiện nay ở Việt nam cũng đã nuôi được loài chim này để phục vụ cho du khách tham quan.


    Nơi cư trú: Vùng rừng núi miền Tây Trung Quốc là chủ yếu, ngoài ra có một vài quần thể hoang dã khác.

    Chim Trĩ vàng
    Chim Trĩ vàng
    Chim Trĩ vàng
    Chim Trĩ vàng

  2. Hồng hạc là tên loài chim lội nước thuộc họ Phoenicopteridae, bộ Phoenicopteriformes. Chúng sống ở cả Tây bán cầu và Đông bán cầu, nhưng sống ở Tây bán cầu nhiều hơn. Có 4 loài sống ở châu Mỹ và 2 loài sống ở Cựu Thế giới. Phân loại Sibley-Ahlquist trong thập niên 1990 đã xếp hồng hạc vào bộ Hạc thay vì bộ Hồng hạc. Chim hồng hạc có đặc điểm đặc biệt là thích đứng một chân đã làm nhiều nhà khoa học khó hiểu. Sau khi nghiên cứu một số nhà khoa học đoán hồng hạc đứng một chân để giữ sức và lưu thông máu tốt hơn.


    Hồng hạc khi mới sinh ra thì chúng có bộ lông màu trắng, mãi sau này khi lớn lên màu lông đổi sang màu hồng nhạt hoặc đỏ thẫm là nhờ vào nguồn thức ăn nơi chúng sinh sống. Chim Hồng hạc thường thức giấc trước lúc bình minh, đi thành từng bầy lớn để kiếm ăn, vào cuối ngày chúng lại di chuyển đến các vùng nước nông để nghỉ ngơi.


    Nơi cư trú: Sống ở cả Tây bán cầu và Đông bán cầu.

    Hồng hạc
    Hồng hạc
    Hồng hạc
    Hồng hạc
  3. Hoàng oanh phương Bắc là một loài chim không to lắm với bộ lông đen và vàng xen kẽ, chỉ nặng chừng 34g và dài 18cm. Là một trong những loài chim màu rực rỡ, hoàng oanh không chỉ đẹp mà còn hót rất hay. Chẳng thế, người ta thường dùng thành ngữ “thỏ thẻ giọng oanh vàng” để chỉ người phụ nữ.


    Loài chim này có kích cỡ trung bình, chúng có mỏ tương đối khỏe và nhọn, các chân và các ngón tương đối ngắn nhưng lại chắc chắn. Màu lông của chúng rất bắt mắt với màu vàng tươi, trên đầu bộ lông có màu đen và trải dài xuôi hai đôi cánh, đôi chỗ xen lẫn thêm chút vàng đậm tạo nên sự sặc sỡ của chúng. Loài chim này là loại chim ăn tạp với thức ăn chủ yếu là hoa quả, sâu bọ và mật ong.


    Nơi cư trú: Phía đông bán cầu.

    Hoàng oanh phương Bắc
    Hoàng oanh phương Bắc
    Hoàng oanh phương Bắc
    Hoàng oanh phương Bắc
  4. Chào mào Hồng y giáo chủ - Cardinalis cardinalis là một loài chim dạng sẻ thuộc chi Cardinalis trong họ Hồng tước Cardinalidae. Loài chim này có thể được tìm thấy ở miền nam Canada, qua phía đông Hoa Kỳ từ Maine đến Texas và phía Nam đến Mexico. Chúng được tìm thấy trong rừng cây, vườn hoa, cây bụi, và đầm lầy. Loài chim biết hót này có kích thước trung bình với chiều dài cơ thể 21 cm. Chúng có một chóp đặc biệt trên đầu và một mặt nạ trên khuôn mặt có màu đen ở chim trống và màu xám ở chim mái. Chim trống có màu đỏ rực rỡ, trong khi chim mái có ô liu hơi đỏ mờ.


    Chúng chủ yếu ăn hạt nhưng cũng ăn côn trùng và trái cây. Chim trống có tính chiếm lãnh thổ, đánh dấu ra khỏi lãnh thổ của mình bằng giọng hót. Trong thời gian tán tỉnh, chim trống mới hát cho chim mái. Tổ có 3 - 4 quả trứng. Loài này đã là loài vật nuôi được ưa chuộng nhưng đã bị cấm ở Hoa Kỳ theo Đạo luật hiệp ước chim di cư năm 1918.


    Nơi cư trú: Miền nam Canada và đông Hoa Kỳ.

    Chào mào Hồng y giáo chủ (Cardinalis cardinalis)
    Chào mào Hồng y giáo chủ (Cardinalis cardinalis)
    Chào mào Hồng y giáo chủ (Cardinalis cardinalis)
    Chào mào Hồng y giáo chủ (Cardinalis cardinalis)
  5. Uyên ương là một loài chim di trú, nằm giữa hai nhóm vịt khoang và vịt mò. Được đặt tên là Uyên ương vì loài chim này luôn luôn có đôi, có cặp. Chim trống có bộ lông sặc sỡ hơn chim cái, với bộ lông nhiều màu, có các vệt màu hài hòa và đẹp mắt.


    Đây là một loài chim thuộc gia đình vịt trời, chiều dài của nó vào khoảng 41 - 49cm, sải cánh dài 65 - 75cm. Loài này thường có đôi với nhau trông rất hạnh phúc, trong đó con trống đẹp hơn con mái với bộ lông sặc sỡ khó nhầm lẫn, có mỏ đỏ, vệt lông hình lưỡi liềm lớn phía trên mặt, ngực màu tía, bộ cánh có nhiều màu sắc óng ả trông rất bắt mắt. Chúng thường sinh sản trong các khu vực nhiều cây cối gần các ao, hồ hay đầm lầy.


    Nơi cư trú: Phổ biến ở châu Á, gần đây có mặt ở một số nơi ở châu Âu.

    Uyên ương (Aix sponxa)
    Uyên ương (Aix sponxa)
    Uyên ương (Aix sponxa)
    Uyên ương (Aix sponxa)
  6. Bói cá là một nhóm các loài chim có kích thước nhỏ và màu sắc rực rỡ thuộc Bộ Sả. Chúng phân bố rộng khắp các lục địa trên thế giới, với hầu hết các loài được tìm thấy ngoài châu Mỹ. Loài nhỏ nhất trong nhóm là Bồng chanh lùn với trọng lượng và chiều cao trung bình chỉ là 10,4 g và 10 cm. Trong khi đó, loài lớn nhất là bói cá khổng lồ khi đạt mức trung bình là 355 g và 45 cm. Tuy nhiên, Sả nhà trò có thể là loài nặng nhất, khi có những con trưởng thành đạt trên 450 g có thể được tìm thấy.


    Chúng là loài có kích thước nhỏ, đầu to, mỏ dài, chân ngắn và lùn. Đặc biệt ấn tượng bởi bộ lông vô cùng sặc sỡ của chúng chúng được ví như bộ áo muôn sắc màu óng ả làm lôi quấn mọi ánh nhìn. Thức ăn chính của loài chim này là cá, thường được bắt bằng cách lao đầu xuống mặt nước.


    Nơi cư trú: Loài chim này có mặt ở mọi nơi trên thế giới.

    Bói cá (Halcyonidae)
    Bói cá (Halcyonidae)
    Bói cá (Halcyonidae)
    Bói cá (Halcyonidae)
  7. Sẻ đất màu là một loài chim trong họ Emberizidae. Loài chim này dài khoảng 16 cm và cân nặng 20 -25 gram. Loài này làm tổ trên mặt đất hoặc gần mặt đất. Chúng ăn hạt nhưng cũng ăn bọ cánh cứng và côn trùng khi đang nuôi chim non.


    Loài chim này đang là đối tượng bị săn đuổi nhiều nhất bởi bộ lông tuyệt đẹp và quá nổi trội của chúng, hầu như ẩn nấp ở đâu cũng bị phát hiện vì quá sặc sỡ, đây được coi là loài đẹp nhất khu vực Bắc Mỹ, nhìn chúng như những bảng pha màu của các họa sỹ với đủ các màu sắc khác nhau như đỏ, tím, vàng, da cam... như một bức tranh vẽ thực thụ.


    Nơi cư trú: Bắc Mỹ.

    Sẻ đất màu (Pesserina ciris)
    Sẻ đất màu (Pesserina ciris)
    Sẻ đất màu (Pesserina ciris)
    Sẻ đất màu (Pesserina ciris)
  8. Chim Toucan Swainson hay còn gọi là Chim Toucan mỏ đục (Danh pháp khoa học là Ramphastos ambiguus swainsonii) là một phân loài của loài chim Toucan hàm đen. Tên khoa học tiếng Anh của chúng bắt nguồn từ nhà nghiên cứu chim kiêm nghệ sĩ người Anh là William Swainson. Đây là loài chim có hình dáng đẹp và được ưa chuộng để nuôi làm cảnh ở một số quốc gia.


    Giống như những con chim Toucans khác, chim Toucan hàm nâu hạt dẻ có một vệt sáng trên đầu và có một cái mỏ trông lớn hơn. Những con trống có chiều dài 56 cm, trong khi những con mái nhỏ hơn thường dài 52 cm. Trọng lượng trung bình của chúng khoảng 599 - 746 gram. Cả hai giới đều giống nhau về hình dạng, chủ yếu là màu đen, lưng và ngực thấp hơn. Các mặt và ngực phía trên có màu vàng tươi sáng, với những đường hẹp trắng và rộng hơn màu đỏ tạo thành một đường biên thấp hơn. Phần phía trên đuôi là màu trắng và phần dưới bụng có màu đỏ. Chân chúng có màu xanh. Bộ lông cơ thể là tương tự như của loài Ramphastos sulfuratus nhưng nhỏ hơn, nhưng các mô hình này là khá khác nhau, được chia thành đường chéo màu vàng rực rỡ và màu nâu sẫm.

    Chim non, chim ra ràng có muội đen, và có bộ lông màu nhạt, đặc biệt là đối với các cái mỏ, viền màu đỏ, và hàm dưới thấp hơn. Chúng được nuôi dưỡng bởi chim bố mẹ trong vài tuần sau khi rời tổ. Những tiếng kêu của Chim Toucan hàm nâu hạt dẻ mandibled là một giọng âm thanh nghe như yo-yip, từng nhịp yip, yip một, nó nghe như giai điệu của bản Dios te dé, Dios te dé. Tiếng kêu của nó để duy trì liên lạc cũng như thể hiện địa vị của mỗi con.


    Nơi cư trú: Nam Mỹ, từ nam Mehico tới Honduras.

    Tucan mỏ đục (Ramphastos sulturatus)
    Tucan mỏ đục (Ramphastos sulturatus)
    Tucan mỏ đục (Ramphastos sulturatus)
    Tucan mỏ đục (Ramphastos sulturatus)
  9. Vẹt Macaw hay còn gọi là Vẹt đuôi dài là tập hợp đa dạng các loài vẹt có đuôi dài, từ nhỏ đến lớn, thường sặc sỡ màu sắc và thuộc về phân họ Vẹt Tân thế giới Arinae phân bố phần lớn ở Nam Mỹ. Nhiều loài trong số chúng được ưa chuộng để nuôi làm chim cảnh.


    Vẹt Macaw dài 84 - 89 cm, trọng lượng 900 - 1,490 g, là một trong những con vẹt kích thước lớn nhất. Cơ thể chủ yếu là sáng màu đỏ tươi, mắt và má da trần có ít lông bên màu đỏ, Cổ màu đỏ tươi. Giáp cổ màu đỏ vàng, mỏ dưới đen mỏ trên màu ngà cuối mỏ màu đen. Lông cánh giữa phía trên có màu vàng trộn màu xanh lá cây, lông vũ chính ngoài cùng là màu xanh, và bên trong gần đuôi lôn màu xanh, mống mắt màu vàng, chân móng vuốt đen.


    Đây là một loài chim thuộc gia đình họ vẹt, bộ lông của chúng nhiều màu sắc chủ yếu là màu đỏ tươi bên cạnh đó là một số lông vũ màu xanh, trên cánh có màu vàng, đuôi dài mà xanh dương và da cam. Thức ăn của chúng chủ yếu là các loại hạt, trái cây và mật hoa.


    Nơi cư trú: Vùng nhiệt đới Nam Mỹ, nhiều nhất ở Braxin và Peru.

    Vẹt Macaw
    Vẹt Macaw
    Vẹt Macaw
    Vẹt Macaw
  10. Công hay là một loài chim thuộc họ Trĩ được Linnaeus mô tả khoa học lần đầu năm 1766. Chim công sinh sống ở rừng nhiệt đới Đông Nam Á và phía nam Trung Quốc. Nó có mối quan hệ gần gũi với Pavo cristatus ở lục địa Ấn Độ. Công đã từng phân bố rộng rãi ở Đông Nam Á từ phía đông và đông bắc Ấn Độ, Bắc Myanma và miền nam Trung Quốc, mở rộng thông qua Lào, và Thái Lan vào Việt Nam, Campuchia, bán đảo Mã Lai và các đảo Java. Loài này được tìm thấy trong một loạt các môi trường sống bao gồm cả rừng nguyên sinh và thứ cấp, cả hai vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, cũng như thường xanh và rụng lá. Họ cũng có thể được tìm thấy trong các khu vực có cây tre, đồng cỏ, thảo nguyên, cây bụi và cạnh đất nông nghiệp.


    Con đực có bộ lông có màu xanh lục óng ánh, đuôi rất dài, có màu lục ánh đồng, mỗi lông ở mút có sao màu lục xanh, đỏ đồng, vàng, nâu. Mào dài, hẹp thẳng đứng, phần mặt của nó có màu vàng và xanh, khi nó múa đuôi xòe ra hình nan quạt để thu hút chim cái. Con cái gần giống con đực nhưng không có mào đầu, không có lông trang hoàng. Lông đuôi con cái thường ngắn và có viền nâu. Mắt nâu thẫm, mỏ xám sừng, chân xám.


    Nơi cư trú: Châu Á đặc biệt là khu vực Đông Nam Á.

    Công (Pavo)
    Công (Pavo)
    Công (Pavo)
    Công (Pavo)



xoivotv | 90phut | mitom tv1 | xem lại bóng đá | banthang | Xoilac tv | xem lại bóng đá | thevang tv | bong da truc tiep | bongdatructuyen | xemlai |