Top 15 Loài chim đại bàng lớn nhất trên thế giới
Đại bàng là loài chim ăn thịt được tìm thấy trên khắp hành tinh và một vài cá thể trong số chúng nằm trong danh sách những loài đại bàng lớn nhất thế giới. Có ... xem thêm...khoảng 60 loài đại bàng đến từ châu Âu, châu Phi và châu Á, trong số chúng có những loài thuộc giống chim ăn thịt cực kì lớn. Để phân biệt được rõ hơn, hãy cùng Toplist tìm hiểu về những loại chim săn mồi lớn nhất thế giới được liệt kê dưới đây.
-
Đại bàng Philippines còn được gọi là Đại bàng lớn Philippine hay Đại bàng ăn thịt khỉ, là một trong những loài chim cao nhất, hiếm nhất, lớn nhất, mạnh mẽ nhất thế giới. Loài chim này được coi là quốc điểu của đất nước Philippines.
Đại bàng Philipine là loài chim săn mồi có màu nâu và trắng được tìm thấy trong những khu rừng rậm rạp ở Philippines. Chúng được coi là loài đại bàng lớn nhất thế giới về chiều dài, theo sau đó là đại bàng harpy, đại bàng biển Steller và đại bàng đuôi nhọn Wedge.
Đại bàng Philippine có bộ lông màu nâu đậm và trắng, cao từ 86 đến 102 cm và nặng 4,7 – 8 kg. Nó được coi là loài 'đại bàng dài nhất còn tồn tại kể từ khi đại bàng Haast tuyệt chủng. Chúng cũng là một trong số các loài hiếm nhất và mạnh mẽ nhất trong thế giới các loài chim. Chân của chúng to, có màu vàng nổi bật với vuốt màu đen. Mỏ màu xám hơi xanh cùng với đôi mắt xanh xám giống chim ưng. Nó có sải cánh dài 184 đến 220 cm với chiều dài cánh bình thường là 57,4-61,4 cm, đuôi là 50 cm. Loài chim này trở thành loài chim quốc gia ở Philippines.
-
Trong tự nhiên, đại bàng Harpy cái thường nặng từ 6-9kg, nhiều trường hợp nặng trên 10kg. Con đại bàng cái lớn nhất thế giới tên Jezebel được ghi nhận nặng tới 12,3kg. Còn đại bàng đực có kích thước nhỏ hơn, trọng lượng chỉ từ 4,4-4,8kg. Đại bàng Harpy là loài chim quý hiếm và có sức mạnh lớn nhất trên thế giới, chúng thường sinh sống ở những khu đất thấp của rừng nhiệt đới. Với sức mạnh cùng vẻ đẹp rất quyền uy đó nên loài đại bàng được tìm thấy ở Châu Mỹ này được coi là loài đại bàng biểu tượng Harpy của Mỹ.
Loài đại bàng này có chiều dài từ 86-107cm và sải cánh rộng từ 176-224cm. Chính vì thế mà không ít người lầm tưởng loài chim này là người mặc trang phục hóa trang chim chứ không có phải chim thật. Với bộ lông vũ màu xám đen phủ kín cổ và phần cánh rộng, cộng thêm phần lông ngực màu trắng muốt, nhìn Harpy không khác gì một "soái ca" cao lớn, lịch lãm.
Thức ăn của đại bàng Harpy là các loài linh trưởng sống trên cây như khỉ và lười. Tuy nhiên những mùa khan hiếm thức ăn, chúng săn cả linh dương và hươu nhỏ, những loài động vật tưởng như chỉ dành cho cáo, sư tử hay hổ. Bởi Harpy là loài chim săn mồi nên chúng “ăn mặn” chứ không “ăn chay” như các loài chim khác. Hơn nữa với kích thước cơ thể lớn, bộ móng vuốt dài và sắc bén, tốc độ di chuyển nhanh, đôi mắt nhạy bén Harpy chính là loài săn mồi trên bầu trời lớn và mạnh nhất thế giới.
-
Đại bàng đuôi nhọn là một trong những loài chim săn mồi lớn nhất thế giới, và là loài chim săn mồi lớn nhất của lục địa Úc và New Guinea. Con mái nặng từ 3 đến 5,77 kg, trong khi những con đực nhẹ hơn từ 2–4 kg. Chúng có chiều dài 81–106 cm, với chiều dài trung bình 95,5 cm. Sải cánh của chúng thường là giữa 182–232 cm, trung bình là 210 cm. Đây là loài đại bàng có chiều dài và sải cánh trung bình lớn thứ 3 trên thế giới.
Đại bàng đuôi nhọn thường bay cao trên không trong nhiều giờ với độ cao đạt tới 1.800 mét và đôi khi cao hơn đáng kể. Chúng có thể nhìn thấy cả ánh sáng hồng ngoại và tử ngoại. Chúng dành phần lớn thời gian đậu trên cây hoặc trên đá hoặc các vị trí thuận lợi như những vách đá mà từ đó chúng có quan sát tốt về phía xung quanh. Trong thời gian nóng dữ dội của ban ngày, nó thường bay cao trong không trung, quanh các dòng không khí nóng bốc lên từ mặt đất. Mỗi cặp chiếm một lãnh thổ từ 9 km2 tới hơn 100 km2.
-
Đại bàng biển Steller sinh sống chủ yếu ở các vùng ven biển phía đông bắc của châu Á, bán đảo Kamchatka của vùng Viễn Đông Nga, nơi mà chúng có thể sống chung với các loài chim nước và một số loài chim săn mồi ăn cá khác.
Cân nặng trung bình của chim mái giao động từ 6 – 9.5kg, trong khi chim trống nhẹ hơn một chút giao động từ 4,9 – 6,8kg. Trọng lượng trung bình này có thể thay đổi theo mùa, hoặc mức độ tiếp cận thức ăn. Chúng có chiều dài cơ thể từ 85 – 105 cm, sải cánh rất dài giao động từ 1,95 – 2,5m thậm chí một số tài liệu còn cho rằng sải cánh của chúng có thể dài hơn rất nhiều, lên đến tận 2,8m.Đại bàng biển Steller trưởng thành có bộ lông màu nâu sẫm đến đen, với màu trắng tương phản xuất hiện ở vai cánh, đuôi và đôi chân. Đôi mắt màu vàng với thị lực tốt. Tuy là loài ăn cá, nhưng bàn chân và các móng vuốt cũng vô cùng mạnh mẽ, không thua kém bất kỳ loài đại bàng hung dữ nào khác.
Có thể nói Steller là loài đại bàng có cái mỏ màu vàng to nhất trong số các loài đại bàng biển, hơn thế đây cũng là cái mỏ lớn nhất trong tất cả các loài đại bàng đang tồn tại, độ mạnh mẽ có thể so sánh với mỏ của các loài kền kền khổng lồ nhất ở thế giới cũ.
-
Đại bàng vàng là một trong những loài chim săn mồi nổi tiếng ở Bắc bán cầu. Loài này thuộc họ Accipitridae. Từng phân bố rộng rãi ở Holarctic, nó đã biến mất khỏi một số khu vực đông dân cư hơn. Mặc dù đã biến mất khỏi hay không phổ biến trong một số phạm vi phân bố trước đây vì các bệnh lây truyền qua đường tình dục, loài này vẫn còn khá phổ biến, có mặt tại Âu Á, Bắc Mỹ, và các khu vực của châu Phi.
Đại bàng vàng có màu nâu sẫm, với bộ lông nâu vàng nhẹ trên đầu và cổ. Sải cánh của loài này dài từ 1,8-2,3m. Trong khi những con chim đực nặng từ 7–11 kg thì con cái chỉ có cân nặng bằng một nửa con đực: từ 3,5–6 kg.
Đại bàng vàng sử dụng sự nhanh nhẹn và tốc độ của kết hợp với móng vuốt cực kỳ mạnh mẽ để chộp một loạt các con mồi, bao gồm thỏ, marmota, sóc đất, và các động vật có vú lớn như cáo và các động vật móng guốc non. Chúng cũng ăn xác thối nếu con mồi sống khan hiếm, cũng như các loài bò sát. Các loài chim, bao gồm cả các loài lớn lên đến kích thước của thiên nga và sếu đã được ghi nhận là con mồi của loài đại bàng này. -
Đại bàng đầu trắng là một loài chim săn mồi hàng đầu tại Bắc Mỹ. Đây là loài chim quốc gia và là biểu tượng của Hoa Kỳ. Loài đại bàng biển này có hai phân loài được biết đến và hình thành một cặp loài với đại bàng đuôi trắng. Phạm vi phân bố của nó bao gồm phần lớn Canada và Alaska, tất cả phần Hoa Kỳ lục địa và miền bắc México. Nó được tìm thấy gần các vùng nước thoáng đãng rộng lớn với một nguồn thức ăn dồi dào và cây lâu năm để chúng làm tổ.
Đại bàng đầu trắng là một loài chim lớn săn mồi, chim mái lớn hơn chim trống với sải cánh có thể dài tới 2,5 m. Chúng có đầu và cổ là màu trắng, thân màu nâu, và lông đuôi màu trắng, nhưng bộ lông của chúng sẽ không phát triển cho đến khi chúng được khoảng 5 tuổi. Tên tiếng Latin của nó có nghĩa là "đại bàng biển".
-
Đại bàng Martial là một loài đại bàng lớn được tìm thấy trong môi trường sống mở và bán mở của châu Phi hạ Sahara. Đại bàng martial là một loài đại bàng rất lớn, với tổng chiều dài 78 – 96 cm, trọng lượng 3 -6,2 kg và sải cánh dài 188 –260 cm, đuôi dài 27,2 – 32 cm, xương cổ chân 9,7 – 13 cm. Đây là loài đại bàng lớn nhất châu Phi và lớn thứ năm trên thế giới.
Bộ lông của con trưởng thành gồm các màu xám-nâu tối trên lưng, đầu và phần trên, còn phần dưới cơ thể có màu trắng với các đốm đen-nâu. Các lông dưới cánh có màu nâu. Con mái thường lớn hơn con trống. Con non có màu nhạt, thường là màu trắng trên đầu và ngực, ít đốm ở phần dưới. Cái mỏ rất khỏe, dài khoảng 5,5 cm và đôi chân được phủ kín lông cũng rất mạnh mẽ. Chúng có thị lực rất tốt (gấp 3,0-3,6 lần so với con người), do đó chúng có thể phát hiện con mồi từ một khoảng cách rất xa. -
Đại bàng rừng châu Phi là một loài chim săn mồi lớn sống ở vùng hạ Sahara châu Phi. Môi trường sống ưa thích của nó là trong rừng và các khu vực cây cối ven sông.
Đại bàng rừng châu Phi có tổng chiều dài lên đến 90cm, hơi nhỏ hơn và có sải cánh ngắn hơn đáng kể so với loài đại bàng lớn nhất của châu Phi, đại bàng martial. Tuy nhiên, chúng được coi là đại bàng mạnh nhất châu Phi khi tính theo trọng lượng con mồi. Nó có thể săn các con mồi động vật có vú như linh dương bụi rậm, cá biệt có thể nặng hơn 30kg.
Đại bàng rừng châu Phi rất hung dữ. Chúng sở hữu móng vuốt rất lớn và những cái chân mạnh mẽ, và có thể giết chết con mồi bằng cách bóp vỡ hộp sọ. Trên 90 phần trăm chế độ ăn uống của đại bàng rừng châu Phi là động vật có vú, chủ yếu là động vật móng guốc nhỏ, đa man đá và động vật linh trưởng nhỏ như khỉ.
-
Đại bàng biển đuôi trắng là loài chim săn mồi lớn có họ hàng gần với đại bàng đầu trắng. Chúng có kích thước khá lớn và sở hữu cả trọng lượng lẫn chiều dài gần bằng với gần với đại bàng biển Steller và đại bàng đầu trắng.
Loài này có cánh rộng, đầu to và một mỏ dày lớn. Chim trưởng thành chủ yếu có màu nâu xám trừ đầu và cổ hơi nhạt màu hơn, lông bay màu đen, và đuôi màu trắng nổi bật. Tất cả các phần không có long có màu vàng, bao gồm cả mỏ và chân. Ở những con chim chưa thành niên, đuôi và mỏ màu sậm hơn, với một dải cuối sẫm màu ở các cá thể chim gần trưởng thành. Sự kết hợp của màu nâu xám xịt, cánh đều và rộng, đuôi trắng, mỏ màu vàng mạnh mẽ và kích thước lớn tổng thể làm cho loài đại bàng đuôi trắng về cơ bản không thể gây nhầm lẫn trong phạm vi nguồn gốc của nó.
-
Đại bàng Verreaux hay còn gọi là cú đại bàng Verreaux là một thành viên trong Họ Cú mèo và là loài cú châu Phi lớn nhất. Loài này cũng là loài cú có cân nặng thứ ba trên thế giới.
Đại bàng Verreaux loài cú rất lớn và mạnh mẽ. Con trống và con mái có vẻ bề ngoài tương tự nhau, tuy rằng con mái có kích thước lớn hơn và nặng hơn. Mặt dạng đĩa màu trắng xỉn, với viền đen bao quanh. Túm lông tai điển hình ngắn và bù xù. Mắt màu nâu sẫm, phía trên mi mắt màu hồng, lông mi màu vàng nâu. Da gốc mỏ màu xám xanh, mỏ màu kem nhạt, gốc mỏ màu xám Lông xung quanh mỏ hơi sẫm hơn. Phần trên lưng màu nâu xám nhạt, ngả màu sữa, với những đường vân mịn màu trắng, và một loạt đốm trắng ở vai. Phần dưới bụng màu nâu xám nhạt hơn, với những đường vân rất mịn, dày đặc. Cổ họng trắng, nổi bật khi kêu. Ngón chân mạnh mẽ, màu xám sừng, phủ lông một phần. Móng vuốt màu nâu sẫm, đầu vuốt màu đen. Con non hoàn toàn bao phủ bởi lớp lông màu trắng kem.
Chiều dài của Đại bàng Verreaux trong khoảng 60–66 cm với sải cánh trung bình dài 140 cm. Trọng lượng cơ thể con trống là 1,6 - 2kg, trong khi trọng lượng cơ thể của con mái là 2,5 - 3,2kg. Các số đo tiêu chuẩn: cánh con trống 42–48 cm, con mái 45–49 cm, đuôi con trống 22-27,5 cm, con mái 23–27 cm và xương cổ chân là 8 cm. -
Đại bàng ăn cá châu Phi là một loài đại bàng cực lớn được tìm thấy ở khắp các vùng Sahara Châu Phi và đây cũng là loài chim biểu tượng của hầu hết các quốc gia Châu Phi như Zimbabwe, Zambia và Nam Sudan.
Đại bàng cá châu Phi là một loài chim lớn. Con mái nặng từ 3,2 đến 3,6 kg, lớn hơn so với con trống với trọng lượng từ 2 đến 2,5 kg. Đây là điển hình của tính lưỡng hình giới tính ở các loài chim săn mồi. Con trống thường có sải cánh dài khoảng 2 m, trong khi con mái có sải cánh 2,4 m. Chiều dài cơ thể là 63–75 cm.
Bộ lông của con chim non có màu nâu, mắt nhạt hơn so với chim trưởng thành. Bàn chân có đế thô có móng vuốt mạnh mẽ để cho phép con đại bàng để giữ con mồi là các loại cá có da trơn. Trong khi loài này chủ yếu ăn cá, nó là loài cơ hội và có thể mất một đa dạng hơn của con mồi như các loài chim nước. Tiếng kêu đặc trưng của loài đối với nhiều người, gợi nhiều liên tưởng đến tinh thần và bản chất của châu Phi.
-
Đây là loài chim săn mồi lớn với màu nâu xám đặc trưng và chỏm mào khá dài. Đại bàng New Guinea cũng là loài chim tiêu biểu của rừng nhiệt đới New Guinea vì khả năng săn mồi cực kì siêu hạng của mình.
Đại bàng New Guinea có chiều cao 75–90 cm, sải cánh dài 157 cm, cân nặng 1,6-2,4 kg. Lông chúng có màu nâu xám, cánh rộng, mỏ lớn, đuôi dài, có phần dưới màu trắng, chân dài và có bộ móng vuốt vô cùng sắc nhọn. So với con đực thì con cái lớn hơn.
Thức ăn của chúng là các loài động vật có vú nhỏ, chim, rắn và làm tổ trên những cây cao. Do bị mất môi trường sống, cùng với việc săn bắn của người dân trên đảo khiến chung trở thành loài đang bị đe dọa của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế.
-
Đại bàng săn mồi Ấn Độ là loài chim săn mồi lớn thuộc họ cá voi và có nguồn gốc từ vùng tiểu lục địa Ấn Độ. Đây cũng là loài chim ăn thịt lớn nhất của Ấn Độ với độ sải cánh dài khoảng 60 cm.
Loài chim ăn thịt này có cánh rộng và đuôi dài giúp nó di chuyển qua các cây dễ dàng. Thân dài 30–46 cm, con mái lớn hơn nhiều so với con trống. Loài này sinh sản ở ở miền Nam Á, từ Ấn Độ và Sri Lanka tới miền nam Trung Quốc, Indonesia và Philippines. Nó chủ yếu là sinh sống ở vùng đất thấp, và định cư quanh năm. Ngay cả ở môi trường sống vùng cao, nó vẫn định cư vào mùa đông, ví dụ như ở chân núi Himalaya của Bhutan hoặc trong rừng Sal.
-
Đại bàng mào Nam Mỹ là một loài đại bàng lớn. Đại bàng mào Nam Mỹ là thành viên duy nhất của chi Morphnus. Đại bàng mào có thể dài tới 89 cm, với sải cánh lên đến 176 cm và nặng tới 3 kg. Bộ lông thay đổi từ màu xám nâu nhạt đến xám đen hoặc thậm chí hơi đen trong một số trường hợp.
Đại bàng mào Nam Mỹ có cổ họng màu trắng và một đốm đen trên mào và một chiếc mặt nạ nhỏ sẫm màu trên mắt. Đại bàng mào Nam Mỹ có phạm vi rộng khắp Trung và Nam Mỹ, nhưng số lượng không lớn. thiên về rừng nhiệt đới đất thấp. Là một loài săn mồi mạnh mẽ, chế độ ăn của nó chủ yếu bao gồm các loài động vật có vú nhỏ, động vật gặm nhấm, rắn và các loài chim nhỏ hơn. Mặc dù phân bố rộng rãi, chúng hiện được Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế xếp vào loại Gần bị đe dọa, chủ yếu do mất môi trường sống.
-
Đại bàng bụng trắng là một loài chim săn mồi lớn ban ngày thuộc Họ Ưng. Đại bàng bụng trắng là một loài chim đặc biệt, chim trưởng thành có đầu, ngực, lông dưới cánh và đuôi màu trắng. Các phần trên có màu xám và sự tương phản dưới cánh bay lông màu đen với lông trắng. Đuôi ngắn và nêm hình như trong tất cả các loài Haliaeetus.
Giống như các loài chim ăn thịt nhiều, con mái là hơi lớn hơn so với con trống, và có thể lên đến 90 cm với sải cánh dài lên đến 2,2 m, và cân nặng 4,5 kg. Con chim chưa trưởng thành có bộ lông màu nâu, mà dần dần được thay thế bằng màu trắng cho đến khi năm, sáu năm tuổi. Tiếng kêu của chúng giống như tiếng ngỗng to. Đại bàng bụng trắng sống theo cặp hoặc theo nhóm nhỏ. Loài đại bàng này ăn rắn biển. Đại bàng bụng trắng lao xuống chụp con mồi trên mặt nước, nó không lặn xuống nước để bắt mồi.