Top 9 Loại cây hiếm nhất thế giới

Vũ Đình Hiếu 4097 0 Báo lỗi

Chúng ta thường được nghe tới những loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng mà không biết rằng trong thế giới thực vật cũng có những loài cây đang bị đe dọa ... xem thêm...

  1. Cây Rhizanthella Gardneri là một loài cây thuộc họ Lan được phát hiện bởi Jack Trott vào năm 1928. Chúng sinh sống và nở hoa trong lòng đất ở phía Tây Australia. Hoa của loài cây này có màu từ trắng sữa đến đỏ, mùi thơm nồng và thường nở hoa vào tháng 5, tháng 6. Có kích thước từ 2,5-3 cm. Vì sống dưới lòng đất không có ánh nắng Mặt Trời nên cây liên kết với một loại nấm có tên là Thanatephorus Gardneri để phát triển. Hiện chỉ còn khoảng 50 cá thể trên thế giới. Loại phong lan đặc biệt này thường dành toàn bộ cuộc đời của mình dưới lòng đất. Nó thậm chí còn nở hoa trong lòng đất. Vào cuối tháng 5 đến đầu tháng 6, mỗi cây nở ra hơn 100 bông hoa từ màu kem đến màu đỏ và tỏa mùi thơm mạnh mẽ.

    Nó chỉ sống ký sinh trên những bụi cây. Do thiếu chất diệp lục nên cây không thể tổng hợp năng lượng từ ánh sáng mặt trời như hầu hết các loại thực vật. Thay vào đó, nó hút chất dinh dưỡng từ rễ của cây bụi nhờ việc liên kết với các loài nấm ký sinh. Rhizanthella gardenneri sinh sản thực vật nhờ đó nó có thể tạo ra ba cây con. Ba trong số các quần thể Rhizanthella gardenneri đã biết, được bảo vệ trong khu bảo tồn thiên nhiên và một sáng kiến phối hợp đã được đưa ra để bảo vệ loài này cho các thế hệ tương lai.

    Cây Rhizanthella Gardneri
    Cây Rhizanthella Gardneri
    Cây Rhizanthella Gardneri
    Cây Rhizanthella Gardneri

  2. Cây Mammillaria herrerae là một loài xương rồng sống tại các vùng núi, được phát hiện vào năm 1931 bởi Wedermann. Chúng có hoa màu hồng, thân màu trắng và hình dạng giống quả bóng golf nên còn được gọi là xương rồng "bóng golf". Hiện tại chỉ còn 5% số lượng cây còn tồn tại trong vòng 20 năm qua. Đây là loại được xếp vào loại nguy cấp, gần như và sắp bị tuyệt chủng, nguyên nhân do môi trường tự nhiên bị phá hoại trầm trọng, điều đáng mừng là nhiều vườn ươm trên thế giới cũng đã nhân giống và bảo tồn được loài này.


    Cây Mammillaria herrerae có nguồn gốc từ thung lũng Tehuacan, phía tây Oaxaco, Mexico, đây là thung lũng có hơn 30 loài thuộc dạng đặc chủng như (Ferocactus ingens, Ferocactus recurvus, F. robustus, Coryphantha pallida ,M. pectinifera and M. napina etc.) đang được bảo tồn. Thung lũng Tehuacan thuộc lưu vực thấp nhiệt đới sa mạc, cây sống dạn bụi rậm, trên đất kiềm, thân chứa nước cao. Thuộc dạng khí hậu khô nóng, chênh lệch nhiệt độ cao, mùa hè có mưa nhẹ. Đây là loại xương phát triển chậm và dễ dàng nhân giống khi cấy trên chính rễ của chúng, nhưng để cây phát triển nhanh nên ghép vào loại xương rồng khác. Mammillaria pectinifera có bộ rễ rất lớn và giữ nước do vậy nên trong sâu vào chậu và thoát nước tốt tránh ngập úng. Nên tưới nước vào mùa xuân và mùa hè, vì đây là thời kỳ phát triển tốt nhất cho cây. Tuy nhiên cũng cần phải cẩn thận với nước, tránh tưới qua nhiều gây thối rễ.

    Cây Mammillaria herrerae
    Cây Mammillaria herrerae
    Cây Mammillaria herrerae
    Cây Mammillaria herrerae
  3. Cây Anogramma ascensionis còn được gọi là Dương xỉ đảo Ascension sinh sống ở đảo Ascension, phía Nam Đại Tây Dương trong điều kiện khô và khắc nghiệt trên các vách đá chênh vênh. Năm 2003 các nhà khoa học tuyên bố chúng là tuyệt chủng nhưng được phát hiện lại vào năm 2009. Hiện chỉ còn gần 40 cá thể còn tồn tại trong tự nhiên. Cây dương xỉ nhỏ có những chiếc lá màu vàng xanh thanh nhã trông giống như những nhánh nhỏ của rau mùi tây. Nó được ghi lại lần đầu tiên vào năm 1842 bởi một nhà thực vật học nghiệp dư, Tiến sĩ AB Curror, và sau đó được Joseph Dalton Hooker mô tả và đặt tên chính thức sau chuyến thăm tới đảo vào năm 1843.


    Đây là loài đặc hữu của sườn dốc Núi xanh trên đảo. Một mẫu vật khác được ghi nhận vào năm 1889, với một vài hoặc không có báo cáo về mẫu vật cho đến năm 1958, khi một nhà khoa học người Anh thu thập một mẫu ở sườn phía bắc của ngọn núi. Các cuộc tìm kiếm tiếp theo được tiến hành vào năm 1976, 1986 và 1995 nhưng không thành công và năm 2003 nó đã chính thức bị tuyên bố tuyệt chủng. Nó là một trong tám loài đặt tên trong chi Anogramma. Nó được cho là đã tuyệt chủng do mất môi trường sống, cho đến khi bốn loài thực vật được tìm thấy trên đảo vào năm 2010. Sau đó, hơn 60 mẫu vật đã được nuôi cấy thành công tại Royal Botanic Gardens, Kew và trên đảo Ascension. Hiện nó được xếp vào loại Cực kỳ Nguy cấp.

    Cây Anogramma ascensionis
    Cây Anogramma ascensionis
    Cây Anogramma ascensionis
    Cây Anogramma ascensionis
  4. Cây Nepenthes attenboroughii hay còn được gọi là cây nắp ấm Attenborough, được phát hiện tại núi Victoria, tỉnh Palawan, Philippines bởi nhà tự nhiên học người Anh là David Attenborough vào năm 2007. Sau khi công bố loài cây này được đặt theo tên David Attenborough. Số lượng loài cây này còn rất ít và đang được bảo tồn. Thuộc loài cây ăn thịt, nó có phần giống chiếc ấm cao 30 cm tiết ra một loại chất lỏng để thu hút con mồi. Cây nắp ấm (pitcher plant) thực ra là một nhóm các loài cây có hình dạng nắp ấm chứ không chỉ là một loài duy nhất. Chúng có kích cỡ và tính chất đa dạng, một số thậm chí còn có cả "khẩu vị" riêng. Về cấu tạo chung, các cây nắp ấm đều có... những cái "ấm" được đậy "nắp".


    "Nắp" (operculum) như cái tên của nó, giúp cho nước mưa không rơi vào bên trong lòng "ấm", nhằm đảm bảo nồng độ dịch vị được cây tiết ra không bị pha loãng. Còn cái "ấm", vốn được tạo ra nhờ sự quây lại thành túi tròn của những chiếc lá đặc biệt. Những chiếc lá này có hai mặt trong và ngoài với tính chất khác nhau. Ở bên ngoài chúng hoàn toàn bình thường, nhưng được tô vẽ thêm nhờ hoa văn và màu sắc sặc sỡ, mọi loài côn trùng có thể đậu lên đó và di chuyển dễ dàng. Nhưng mặt bên trong hoàn toàn khác. Một khi "kẻ bướm hoa" đã rơi vào đây, gần như nó không thể thoát. Sau khi khám phá này được công bố, nó đã mở đầu cho một làn sóng mới trong giới sinh vật học, mối quan tâm nghiên cứu về loài nắp ấm. Người ta bắt đầu đặt ra câu hỏi - liệu các loài nắp ấm có ăn thịt các loài thú hay không?

    Cây Nepenthes attenboroughii
    Cây Nepenthes attenboroughii
    Cây Nepenthes attenboroughii
    Cây Nepenthes attenboroughii
  5. Cây Tahina spectabilis hay còn gọi là cây cọ tự tử được phát hiện bởi Xavier Metz và gia đình năm 2007, đến năm 2008 thì được công bố chính thức, hiện số lượng cá thể còn tồn tại chưa đến 100. Loài cây này có nguồn gốc từ tây bắc Madagascar, thân cây có thể cao đến 18 m (59 ft) còn những chiếc lá xòe rộng đến 5 m (16 ft). Chúng có vòng đời từ 30 đến 50 năm, chỉ nở hoa một lần rồi chết. Cọ tự tử hay Tahina spectabilis là một loài cọ khổng lồ chỉ sống tập trung trong một khu vực 4km2 ở Analalava, Madagascar. Qua phân tích ADN, các nhà thực vật học nhận thấy loài cọ tự tử này có họ hàng tận bên châu Á khi có những nét tương đồng với một số loài cọ Afghanistan, Thái Lan hay Trung Quốc. Một mối nguy khác mà loài cây này đang đối diện là môi trường sống đang thu hẹp đáng kể do cháy rừng và do người dân phá rừng lấy đất làm nông nghiệp. Hiện nay, hạt giống của loài cọ tự tử được gửi đến hơn 10 viện nghiên cứu khác nhau trên 5 châu trồng thử nghiệm với hi vọng có thể gia tăng số lượng cá thể của loài đặc biệt này.

    Đây là loài cọ lớn nhất trên đảo Madagascar. Với kích thước khổng lồ này, cọ tự tử có thể được nhìn thấy trên Google Earth. Xavier Metz, nhân viên người Pháp quản lý một dự án trồng điều ở miền bắc Madagascar phát hiện cá thể cọ lạ khi cùng gia đình dã ngoại. Metz chụp hình và đến các nhà sinh vật học ở Vườn thực vật Hoàng gia KEW (Anh). Ngay lập tức, các bức hình mê hoặc những nhà sinh vật học, trong đó có TS John Dransfield.TS John Dransfield cho biết điểm đặc biệt nhất của loài cọ này là sau 30-50 năm sinh sống, cây mới nở hoa lần đầu tiên với số lượng hàng trăm bông mỗi nhánh, hàng triệu bông cả cây. Trớ trêu thay, đó cũng là lần duy nhất loài cọ này nở hoa bởi chỉ vài tháng sau, cọ yếu dần rồi chết đi. Nguyên nhân do cây đột ngột phải cung cấp chất dinh dưỡng cho quá nhiều bông hoa, làm cho cây kiệt sức và không thể sống tiếp.

    Cây Tahina spectabilis
    Cây Tahina spectabilis
    Cây Tahina spectabilis
    Cây Tahina spectabilis
  6. Cây Encephalartos hirsutus hay còn được gọi là Vạn tuế Venda cycad, được tìm thấy bởi P.JH Hurter năm 1996 tại Limpopo, Nam Phi. Chúng phát triển ở độ cao từ 800 đến 1.000 m trên mực nước biển, có tuổi thọ lên đến 70 năm. Số lượng ước tính ban đầu khi được tìm thấy khoảng 400-500 cây nhưng đang giảm mạnh do con người khai thác dùng để trang trí. Nó là một cycad arborescent, với một thân cây thẳng đứng, trở nên rủ xuống trong các mẫu vật cũ, cao tới 4 m và có đường kính 35cm. Các lá, được trang trí công phu, xếp thành một vương miện ở đỉnh của thân, dài 1,1-1,4 m, được hỗ trợ bởi cuống lá dài khoảng 13 cm, và bao gồm nhiều cặp lá chét hình elip và vành dài với toàn bộ rìa và đỉnh gai, cố định trên các rachis với góc khoảng 40°, giảm xuống gai về phía gốc cuống lá.

    Những năm gần đây ở Châu Âu đã dùng lá non của Vạn tuế gia công thành lá khô có màu sắc tươi đẹp dùng để cắm hoa rất được ưa chuộng. Vạn tuế phân cây đực, cây cái riêng rẽ, lá của cây cái dài và to hơn lá cây đực, thỉnh thoảng có ra hoa kết quả, song nhân giống Vạn tuế chủ yếu vẫn là nhân giống vô tính. Giống như xương rồng "bóng golf", số lượng loài cây này giảm mạnh khi con người có xu hướng sử dụng chúng cho các mục đích trang trí. Theo BBC, các báo cáo chưa được xác nhận cho hay cây vạn tuế Venda cycad đã tuyệt chủng trong tự nhiên.

    Cây Encephalartos hirsutus
    Cây Encephalartos hirsutus
    Cây Encephalartos hirsutus
    Cây Encephalartos hirsutus
  7. Cây Acacia anegadensis còn được gọi là cây Poke-me-boy, sinh sống tại quần đảo Virgin, Anh. Loài cây này đang bị đe dọa vì mất môi trường sống. Để bảo tồn cho chúng các chuyên gia đã trồng 22 cây con tại vườn thảo mộc JR O'Neal Botanic Garden ở Road Town, Quần đảo Virgin thuộc Anh. Số lượng cây còn tồn tại ngoài thiên nhiên hiện chưa được xác định. Vì đây là vùng đất thấp nên mỗi khi thủy triều lên, cây Poke-me-boy thường bị ngập sâu trong nước. Chúng có hình dạng rất giống với những cây me chua tại Việt Nam chúng ta, đặc biệt là phần lá. Hiện nay, các chuyên gia sinh vật học vẫn chưa thể xác định được số lượng loài cũng như khu vực phân bố, chỉ biết được rằng chúng chỉ xuất hiện trong một khu vực có diện tích 10 km2.


    Vachellia anegadensis (pokemeboy) là một loài cây thuộc họ đậu trong họ Fabaceae. Môi trường sống tự nhiên của nó là rừng khô nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, cây bụi cận nhiệt đới hoặc khô nhiệt đới, bờ cát và các khu vườn nông thôn. Bảo vệ môi trường sống của loài này cũng là góp phần bảo tồn rừng khô Caribe, một điểm nóng đa dạng sinh học và là một trong những sinh cảnh bị đe dọa nghiêm trọng nhất trên Trái đất. Vườn Bách thảo Hoàng gia (RBG), Kew đang làm việc cùng với National Parks Trust in BVI để hiểu và bảo tồn loài này cũng như môi trường sống độc đáo của nó.

    Cây Poke-me-boy
    Cây Poke-me-boy
    Cây Poke-me-boy
    Cây Poke-me-boy
  8. Cây Medusagyne oppositifolia hay cây sứa, loài này đã từng được coi là tuyệt chủng cho tới khi một vài cây được phát hiện lại trong thập niên 1970 bởi J. Procter. Chúng sinh sống ở đảo Mahé của Seychelles, hiện số lượng cá thể ngoài thiên nhiên còn rất ít và không được bảo vệ. Cây sứa (danh pháp khoa học: Medusagyne oppositifolia), loài duy nhất của chi Medusagyne và họ Medusagynaceae, một loài cây gỗ cực kỳ nguy cấp và bất thường, đặc hữu trên đảo Mahé của Seychelles. Loài này đã từng được coi là tuyệt chủng cho tới khi một vài cây được phát hiện lại trong thập niên 1970.

    Bộ nhụy của hoa loài cây này trông giống như các xúc tu của sứa, vì thế mà có tên gọi thông thường trong một số ngôn ngữ (như tiếng Anh) cũng như trong tên gọi khoa học của nó. Loài cây này thể hiện sự thích nghi với khí hậu khô, một điều kỳ lạ trên một quần đảo ẩm ướt. Nó có thể chịu được khô hạn, và hạt phát tán nhờ gió. Điều này gợi ý rằng nó có nguồn gốc Gondwana. Chi Medusagyne thường được gộp trong họ Ochnaceae nghĩa rộng, chẳng hạn trong phân loại gần đây của Angiosperm Phylogeny Group. Họ nhỏ Quiinaceae ở vùng nhiệt đới châu Mỹ cũng được gộp trong họ Ochnaceae nghĩa rộng.

    Cây Medusagyne oppositifolia
    Cây Medusagyne oppositifolia
    Cây Medusagyne oppositifolia
    Cây Medusagyne oppositifolia
  9. Cây Platanthera praeclara hay cây lan tua trắng, được phát hiện vào năm 1986 bởi Sheviak và M.L. Bowles. Loài cây này sinh sống ở thảo nguyên Tallgrass phía Tây của sông Mississippi, Canada (Manitoba); Hoa Kỳ (Iowa, Kansas, Minnesota, Missouri, Nebraska, North Dakota). Chúng phát triển từ 38-85 cm, hoa tua màu trắng, bị đe dọa do mất môi trường sống, số lượng cá thể còn tồn tại rất ít và đang được bảo tồn. Hoa cò trắng, có tên khoa học là Habenaria radiata và sở hữu hình dáng rất giống một con cò trắng đang sải cánh. Ở nước ta, hoa cò trắng Habenaria radiata còn được biết đến với những tên gọi khác là lan bạch hạc hay diệc bạch.


    Hoa cò trắng Habenaria radiata là loài hoa đặc hữu của Nga, Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc. Cây hoa cò trắng Habenaria radiata có nhiều lá dọc theo thân cây, cánh hoa màu trắng có những tua nhỏ. Hoa cò trắng Habenaria radiata ra hoa vào mùa hè. Loài hoa này thích hợp với vùng khí hậu ôn hòa và những nơi có nhiều nước. Khi chớm nở, hoa cò trắng Habenaria radiata mang hình hài một chú chim đang đậu. Còn khi hoa nở, hoa có hình dáng như một chú chim đang tung cánh. Do sở hữu hình dáng hệt như một chú cò trắng mà hoa Habenaria radiata thường hay bị nhầm lẫn với hoa tua trắng (Platanthera praeclara) – một giống phong lan quý hiếm ở vùng Bắc Mỹ.

    Cây Platanthera praeclara hay cây lan tua trắng
    Cây Platanthera praeclara hay cây lan tua trắng
    Cây Platanthera praeclara hay cây lan tua trắng
    Cây Platanthera praeclara hay cây lan tua trắng



xoivotv | 90phut | mitom tv1 | xem lại bóng đá | banthang | Xoilac tv | xem lại bóng đá | thevang tv | bong da truc tiep | bongdatructuyen | xemlai |