Top 10 Giống chó đẹp nhất Thế giới bạn có thể chưa biết
Chó được coi là một người bạn trung thành của con người, chó là một loài động vật thuộc chi Chó, tạo nên một phần tiến hóa của sói, đồng thời là loài động vật ... xem thêm...ăn thịt trên cạn có số lượng lớn nhất. Chó và sói xám thuộc nhóm chị em, giống như những loài sói hiện đại đều không có họ hàng gần đến những loài sói được thuần hóa đầu tiên, đồng nghĩa với tổ tiên gốc của chó đã bị tuyệt chủng. Chó cũng là loài động vật đầu tiên được con người thuần hóa và đã được chọn giống qua hàng thiên niên kỷ với nhiều hành vi, khả năng cảm nhận và đặc tính vật lý. Loài vật này được sử dụng để giữ nhà hoặc làm thú chơi. Răng của chúng dùng để giết mồi, nhai thịt và gặm thịt, thỉnh thoảng để cắn nhau. Chó là loài động vật được nuôi nhiều trên thế giới, có thể trông coi nhà, chăn cừu, dẫn đường, kéo xe, cũng là thực phẩm giàu đạm. Chó giúp con người rất nhiều việc như trông nhà cửa, săn bắt, và được xem như là loài vật trung thành, tình nghĩa nhất với con người. Ngày nay, nhu cầu nuôi chó cảnh đang được phát triển nên những giống chó nhỏ như Fox, Chihuahua hoặc chó thông minh như Collie được nhiều người chơi quan tâm đến. Hãy cùng Toplist tìm hiểu về những giống chó đẹp nhất Thế giới trong bài viết sau đây nhé!
-
Chó sục Jack Russell hay còn gọi là chó sục Russell hay Parson Jack Russell là một giống chó thuộc nhóm chó sục có nguồn gốc từ chó săn cáo xuất xứ từ Anh Quốc trong thế kỷ 19. Jack Russell Terrier là giống chó rất chuyên nghiệp trong việc đào hang và bắt các loài gặm nhấm nhỏ. Tên của nó bắt nguồn từ Mục sư John Russell, một người đam mê săn bắn, người đầu tiên nuôi con cáo săn bắn. Cái tên "Jack Russell" đã được sử dụng trong nhiều năm để mô tả một mảng rộng các con chó sục nhỏ màu trắng, nhưng bây giờ sau khi một cuộc chiến pháp lý diễn ra, JRTCA (Jack Russell Terrier Câu lạc bộ của Mỹ) và chi nhánh của nó đã được sự độc quyền sử dụng tên Jack Russell Terrier để mô tả phiên bản đặc biệt của họ, Jack Russell Terrier là một nhánh chó sục độc đáo bởi bản tính nhanh nhẹn, ranh mãnh và bản năng sinh tồn của chúng từ 200 năm trước tức thế kỷ 19.
Đây là một giống chó cỡ nhỏ, chủ yếu thân hình màu trắng, mịn, hoặc thô. Chó cân nặng khoảng 5 kg đến 7 kg, chiều cao khoảng 30 cm đến 35 cm, chúng là giống chó có thân hình nhỏ nhắn và thân thể gọn nhẹ. Đầu chúng nhỏ, mõm thường có lông xù trong khi toàn cơ thể lông mượt có thể nói đây là đặc trưng của chúng. Mũi đen, mắt sáng thường có màu nâu hoặc đen có tròng. Chiều cao và chiều dài cơ thể được ước theo tỷ lệ vàng nên luôn cho trực quan thấy một thân hình cân đối và nhanh nhẹn. Vì Jack Russell là giống chó săn mồi và đào hang hốc nên kích thước ngực nhỏ để giảm bớt sức cản của gió khi đuổi theo con mồi hay đào hang. Chúng có hai loại lông cứng và lông mượt, với hai loại, lông dẻo dai không dễ gãy, sát và rậm. Màu sắc toàn thân trắng hoặc có thể có những mảng nâu, chanh, những mảng màu đen hoặc cả ba màu. Những mảng màu trên người thường hiếm thấy, xuất hiện ở góc đuôi và đầu. Bộ lông của Jack Russell chủ yếu là màu trắng (hơn 51%) pha với màu đen, nâu hoặc vàng. Trên da đôi khi xuất hiện những mảng màu đen hoặc nâu gọi là ticking. Đôi khi gặp những chú Jack Russell toàn thân có lông màu trắng nhưng mỗi khoang đốm mắt màu đen hoặc nâu. Tuổi thọ trung bình của chúng từ 14 - 15 năm hơn.
-
Pug hay thường được gọi là chó mặt xệ là giống chó thuộc nhóm chó cảnh có nguồn gốc từ Trung Quốc, chúng có một khuôn mặt nhăn, mõm ngắn và đuôi xoăn. Giống chó này có bộ lông mịn, bóng, có nhiều màu sắc nhưng phổ biến nhất là màu đen và nâu vàng. Cơ thể của Pug nhỏ gọn hình vuông với các cơ bắp rất phát triển. Pug được đưa từ Trung Quốc đến châu Âu vào thế kỷ thứ XVI và trở nên phổ biến ở Tây Âu nhờ nhà Orange-Nassau của Hà Lan và nhà Stuart. Tại Vương quốc Anh, vào thế kỷ thứ XIX, Nữ hoàng Victoria có một niềm đam mê vô cùng to lớn đối với loài chó Pug và bà đã lan truyền nó đến các thành viên khác trong Hoàng tộc. Pug là một giống chó rất thân thiện và hiền lành. Nó giữ vững sự phổ biến cho đến thế kỷ thứ XXI, với nhiều người nổi tiếng sở hữu giống chó này. Một chú chó Pug đã đoạt giải Nhất sự kiện World Dog Show năm 2004. Có nguồn gốc từ châu Á khoảng 400 trước Công nguyên. Tuy vậy hiện nay nguồn gốc của Pug vẫn còn là vấn đề tranh cãi. Một số chuyên gia cho rằng Pug có không ai biết gốc từ vùng Viễn Đông, được du nhập bởi các nhà lái buôn Hà Lan. Họ cũng cho rằng có thể đây là một nhánh của giống chó Bắc Kinh lông ngắn. Tuy vậy có ý kiến khác cho rằng Pug là kết quả của việc lai tạo giống chó Bulldog bé.
Chó Pug có thân hình chắc lẳn, gọn gàng, Cơ thể của loài chó này được coi là cân đối nếu chiều cao tính đến vai gần tương đương với chiều dài từ vai đến hết mông. Chó chuẩn có hình dáng giống quả lê, phần vai rông hơn phần hông. Bộ lông ngắn, mềm mại, dễ chải có màu nâu, trắng, vện và trộn lẫn giữa chúng. Da chúng mềm mại, tạo cảm giác dễ chịu khi vuốt ve. Chúng có đôi mắt tròn lồi màu sẫm và hàm dưới hơi trề ra rất ngộ. Đuôi thẳng hoặc xoắn. Chăm sóc thích hợp của các nếp nhăn là quan trọng nhất. Do Pug có một cái mũi ngắn và thiếu phần xương trên mắt nên chúng rất dễ bị tổn thương mắt, gặp các vấn đề về mắt như lồi mắt, xước giác mạc, quặp mí. Đường thở của chúng cũng rất hẹp, gây khó thở hoặc không điều hòa được thân nhiệt thông qua sự bay hơi ở lưỡi. Thân nhiệt bình thường của Pug rơi vào khoảng từ 38°C đến 39°C. Nếu thân nhiệt của nó vượt quá 41°C, nhu cầu oxy sẽ tăng cao và cần phải hạ thân nhiệt ngay lập tức. Nếu thân nhiệt chạm ngưỡng 42°C sẽ xảy ra tổn thương nội tạng. Tình trạng thở khó khăn của Pug có thể tiến triển nặng hơn nếu nó bị stress khi được vận chuyển bằng đường hàng không, vì nó bị giữ trong không gian chật và nhiệt độ cao. Do gây ra cái chết của nhiều chú chó Pug và các loài sọ ngắn khác, nhiều hãng hàng không đã cấm vận chuyển hàng và ban hành luật hạn chế theo mùa.
-
Chó đốm hay còn gọi là chó Dalmatian là một giống chó nhà có nguồn gốc từng vùng Dalmatia (một phần của lãnh thổ Croatia), nơi mà giống chó này được tìm thấy với đặc trưng là thân hình có những đốm đen trên nền lông trắng, giống chó này thường được gọi là bánh Pudding nhân nho khô vì bộ lông đốm của chúng. Nguồn gốc của chúng là giống chó kéo xe và chó săn mùi. Chó đốm là một loại chó cưng trong nhà chúng rất năng động và thích chạy. Chó đốm được biết đến nhiều thông qua bộ phim hoạt hình nổi tiếng 101 chú chó đốm. Dalmatian là một giống chó nhà có nguồn gốc từ vùng Dalmatia (một phần của lãnh thổ nước Croatia). Đặc điểm nổi bật dễ nhận biết của giống chó này đó là chúng có một bộ lông trắng với những đốm đen bắt mắt. Với thân hình thon gọn, săn chắc và đẹp của mình, giống chó này đứng trong danh sách những giống chó đẹp nhất thế giới. Mọi người thường ưu ái gọi chúng là những chiếc bánh Pudding nhân nho khô cũng bởi do bộ lông đốm của chúng.
Chó đốm có thân hình cân đối, cơ bắp nhưng thanh thoát và có sức chịu đựng dẻo dai đáng kinh ngạc. Chúng có bộ lông ngắn, cứng và dày màu trắng toát điểm một cách ngẫu nhiên những đốm màu đen hoặc nâu đỏ. Những vết đốm này ngoài màu đen truyền thống còn có các màu khác như nâu, chanh, xanh sẫm hoặc trắng tuyền. Những con bị điếc thường là rất khó nuôi dạy và hay trở nên hung hãn khi trưởng thành. Ngoài ra sỏi thận và dị ứng cũng là 2 căn bệnh chủ yếu nữa của giống chó này. Chó đốm là loài chó duy nhất bị bệnh gút, bởi chúng là loài có vú duy nhất, trừ con người, sản xuất ra axit uric. Nồng độ axit uric của chó Đốm thường cao hơn các giống chó khác. Vì vậy nên cần có chế độ dinh duỡng nghèo đạm dành cho giống chó này. Khi phát triển đầy đủ, trọng lượng của nó thường dao động trong khoảng 16 đến 32 kg và chiều cao khi đứng 48 - 61 cm, với con đực thường lớn hơn một chút so với con cái. Chân của chó có hình tròn, các ngón chân vòm, và các móng thường có màu trắng hoặc màu sắc tương tự như các điểm của chó. Tai mỏng côn về phía đầu và được thiết lập khá cao và sát với đầu. Màu mắt thay đổi từ màu nâu, hổ phách hoặc màu xanh, một số con chó có một mắt màu xanh và một mắt màu nâu, hoặc kết hợp khác.
-
Chó Bull là giống chó có nguồn gốc từ chó ngao châu Á cổ xưa nhưng chỉ thực sự phát triển ở nước Anh. Ban đầu chúng được lai tạo dùng để đấu với bò trong những cuộc chơi máu me, sau đó dùng để giữ nhà. Được chọn là con vật lấy phước của nhiều trường đại học và tổ chức ở Anh và Mỹ, ngày nay chó Bull ngày càng được nhiều người chọn nuôi do tính tình và ngoại hình của chúng. Chúng còn là loài hay ăn và lười vận động nên dễ bị béo phì. Chúng còn là một trong những giống chó đắt nhất với mức giá từ 2.500 - 9.000 USD một con. Giống chó này đã có một lịch sử phát triển khá là lâu đời. Tên gọi Bulldog xuất phát từ hình dáng chắc khỏe như loài bò tót và sức mạnh của chúng, xuất phát từ hình dáng bề ngoài của nó rất hầm hố vững chắc, có thể nói là dữ dằn, giống như những chú bò tót cơ bắp và sở hữu một sức mạnh đáng nể, luôn tràn đầy sinh khí và sẵn sang chiến đấu, đặc biệt từ sức mạnh khi tấn công những con bò trong các cuộc chiến đấu bất phân thắng bại. Những cuộc đấu đẫm máu này về sau vào thế kỷ XIX đã bị cấm tổ chức vĩnh viễn cho đến nay. Chó Bun đã trải qua sự thay đổi lớn, đặc biệt là suốt thế kỷ XIX, khi mà những cuộc thi chó tiêu chuẩn được diễn ra.
Thời gian đầu, chó bulldog được dùng làm chó nhử đấu với bò mộng (bull baiting). Lúc ấy chúng có chân cẳng cao hơn hậu duệ chúng sau này. Năm 1835, trò chơi chó mồi nhử đấu bò mộng bị cấm ở Anh quốc, thì chó Bulldog được chuyển qua trò chơi chó đấu chó hay còn gọi là chọi chó, nhưng ở lĩnh vực này, loại Bulldog ít được ưa chuộng bằng loại Bull Terrier vì giống này nhỏ gọn hơn dễ dàng dấu diếm hơn khi các cơ quan kiểm tra việc chọi chó bất hợp pháp. Từ dó giống Bulldog không phổ biến. Nhưng sau đó, hình ảnh của chúng đã trở nên sôi động lại để trở thành loại chó kiểng phổ biến. Chính loài chó này có thể coi là trong những nhân tố quan trọng góp phần tạo nên một số những loại chó mới bằng công nghệ lai tạo. Thường thì người ta sẽ lựa chọn những đặc tính ưa Việt của chúng để lai tạo ra những sản phẩm chó mới như Chó Bully hay Chó sục Bull. Chính vì những đặc tính tốt ở loài chó này mà đã được các nhà lai tạo giống chọn lựa. Loài chó này chân ngắn, mặt không được đẹp lắm và hay lè lưỡi nhưng chúng rất dịu dàng, dũng cảm và dễ dàng chải lông. Bulldog này vốn sở hữu vẻ mặt dữ dằn và hơi bặm trợn nhưng cũng chảy xệ đáng yêu. Chúng có nếp nhăn trán và má rất đặc trưng. Hai lỗ mũi hếch lên như đang đánh hơi. Chó Bun rất dễ gần và thân thiện với con người, chúng chỉ gây hấn với những người lạ có ý định xâm phạm lãnh thổ, đây là một nòi chó thích hợp để canh gác cửa nhà. Ngày nay, chó Bun có những tính cách và đặc điểm tương đối khác xa so với tổ tiên của chúng. -
Chó tha mồi Labrador thường được gọi với tên thân thuộc là Lab là một giống chó săn phổ biến ở Mỹ chúng thuộc nhóm chó săn mồi (gundog) và thường dùng để tha các con mồi về cho chủ trong các cuộc săn. Tên gọi Labrador có xuất xứ từ chữ "labrador" trong ngôn ngữ Bồ Đào Nha, có nghĩa là người lao động. Trong quá khứ, chó Labrador là giống chó được các thủy thủ, ngư dân Newfoundland va Bồ Đào Nha ưa chuộng nhất. Chúng hiền lành, dễ gần và thích ở gần con người, loài chó săn mồi được coi là một trong những loài chó phổ biến nhất ở Mỹ trong những năm qua. Chó săn mồi rất năng động, đáng tin cậy, đáng yêu, dễ huấn luyện, nhiều người Mỹ coi chú chó này là một thành viên trong gia đình. Ở Nga chúng còn được gọi là "Labriki", "Laby", hay "Labukh". Tổ tiên của chúng là giống chó Newfoundland ở Canada, công việc thường ngày của chúng là giúp những ngư dân kéo lưới bắt cá. Labrador được huấn luyện để nhảy từ trên tàu xuống nước đầy băng tuyết và kéo lưới vây lại giúp những ngư dân bắt cá dễ dàng hơn. Chúng được các thuyền Anh mang về nước vào những năm 1800 và chính ở nước Anh, bản năng tìm kiếm của chúng được phát triển hơn. Chúng cũng trở thành những chú chó gia đình và để bầu bạn bởi bản tính dịu dàng, tình cảm và rất dễ huấn luyện.
Chúng cũng chứng tỏ khả năng trong việc phát hiện thuốc nổ, dắt người mù và giúp việc cho những người tàn tật. Trung thực, điềm tĩnh, thông minh, khi chơi với trẻ nhỏ gây được sự yên tâm cho con người,luôn luôn tự thoả mãn hài lòng, thích hợp cuộc sống vùng ngoại ô. Chó săn Labrador có khứu giác đặc biệt tốt, nên trong cả hai thế chiến giống chó này được dùng để truy tìm địa lôi, hiện nay được dùng để đánh hơi tìm các loại độc dược phạm pháp. Về cơ bản được nuôi trong nhà do đó nên chuẩn bị tốt lồng hoặc phạm vi tương đối rộng cho chúng, bởi giống chó này lớn rất nhanh. Giống chó Labrador chiếm gần tám mươi phần trăm số chó dẫn đường trên toàn thế giới. Với phương diện là chó săn, chó Labrador là phụ tá vô cùng đắc lực cho thợ săn: hoạt động không mệt mỏi, đánh hơi theo dấu tài tình, hiểu và thực hiện các mệnh lệnh một cách nhanh chóng, tóm tại thuộc hàng xuất sắc trong các nòi chó săn. Chó Labrador có thể tìm kiếm chính xác không bao giờ sai vị trí con mồi bị bắn chết hoặc bị bắn rơi, cả ở trên cạn lẫn dưới nước. Chúng còn có trực cảm tốt, sức chịu đựng dẻo dai, bền bỉ, đặc biệt là khả năng đánh hơi theo dấu máu con mồi dù đã khô sau mấy ngày. -
Rottweiler hay còn gọi là rốt hoặc rotti là một giống chó có nguồn gốc từ Đức được dùng như loại chó chăn gia súc nhưng thường được huấn luyện để trở thành chó nghiệp vụ. Chúng còn là những con chó chiến đấu tốt và có khả năng chịu đựng được các vết thương. Rottweiler còn là loài chó khoẻ mạnh, thông minh. Dù trông vẻ ngoài to xác và dữ dằn nhưng chúng biết nghe lời và là những chú chó bảo vệ tốt. Chúng ít thân thiện với người lạ nhưng với người quen lại tỏ ra dễ mến. Chúng là giống chó khá điềm tĩnh. Nhìn chung, Rottweiler là một giống chó mạnh mẽ với thói quen sống bầy đàn và bản năng bảo vệ. Hành vi nguy hiểm tiềm tàng trong Rottweiler thường do sự vô trách nhiệm, lạm dụng, bỏ bê, thiếu huấn luyện của con người. Tuy nhiên, sức mạnh của Rottweiler không nên bỏ qua vì chúng là một trong những giống chó nguy hiểm, lực cắn của chúng có thể lên đến 136 kg. Rottweiler là một giống chó khá phổ biến nhưng giá bán của nó lại lên đến 3.000 USD đối với mỗi con. Rottweiler được mang tên một thị trấn miền nam nước Đức, nơi phát hiện ra giống chó này. Giống chó Rottweiler có nguồn gốc từ giống chó ngao Ý. Chúng được lai tạo tại thành phố Rottweil bang Wurttemberg, Đức và xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1800, giống chó mới này dần dần trở nên nổi tiếng vào những năm giữa thể kỷ 20 nhờ các nhà lai tạo giống ở Stuttgart.
Trong lịch sử, chúng được dùng như loại chó chăn gia súc. Tổ tiên của nó là loài có cổ xưa từ thời La Mã, phục vụ cho quân đội trong chiến tranh, săn bắn thời trung cổ hay kéo xe thồ chở sửa thay thế cho ngựa hoặc chăn giữ cừu là những điều con người tận dụng được từ loài chó này, từ 1910 cho đến nay giống cho này được chính thức công nhận là chó cảnh sát. Như vậy, ban đầu nó được sử dụng để chăn gia súc, mặc dù cuối cùng nó được huấn luyện để trở thành một con chó có thể được sử dụng cho nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu, hướng dẫn cho người mù hoặc là cảnh sát và chó bảo vệ. Các đặc tính, ưu điểm tiêu biểu của giống chó này là khả năng theo dõi, chăn dắt gia súc, canh gác, bảo vệ, chó cảnh sát, kéo xe và chó chiến đấu. Đây là giống chó có thể phục vụ trong những công việc đặc biệt, nó có những tính cách mạnh mẽ, Ngày nay, Rottweiler được sử dụng trong việc canh gác, tìm kiếm, bảo vệ, trinh sát của lực lượng cảnh sát và bộ đội biên phòng, ở nhiều nước giống chó này được coi như một người bạn, một phương tiện canh gác, giữ nhà, nhìn chung chung là hiền lành và điềm tĩnh, mặc dù nó có thể không chào đón người lạ vì những bản năng lãnh thổ và canh gác.
-
Chó võ sĩ hay chó Boxer là một giống chó chọi có nguồn gốc từ châu Âu do lai tạo với chó Bun. Loài chó này có tên như môn thể thao đấm bốc vì chúng rất thích sử dụng hai chân trước như các võ sĩ quyền Anh, đặc biệt là khi chiến đấu, ngoài ra cái tên ngộ nghĩnh này còn vốn bắt nguồn từ vẻ ngoài đặc biệt của chúng ở chỗ vòng trắng ở bàn chân giống hệt chiếc găng của võ sĩ quyền Anh. Không những vậy, loài này cũng thường dùng hai chân trước nhảy cẫng lên mừng chủ. Boxer rất nhanh nhẹn và hiếu động nên thích hợp trong các cuộc thi tài. Tuy nhiên, việc huấn luyện chúng thường phải thực hiện ngay từ nhỏ, vì chúng khá cứng đầu và bướng bỉnh. Chúng yêu quý con người, đặc biệt là trẻ em. Chúng rất kiên trì và biết bảo vệ con người. Từ thế kỷ 19, chúng được nuôi để thi đấu do chúng có thể đứng bằng 2 chân trước để chiến đấu với đối thủ. Boxer không quá hung dữ nhưng có tận 48 tai nạn liên quan đến chúng từ năm 1982 đến 2012. Vui vẻ, tràn đầy năng lượng nhưng cũng khá cứng đầu.
Tổ tiên của giống chó Boxer là hai giống chó thuộc nhóm chó ngao của Đức là Bullenbeiszer và Barenbeiszer. Sau đó chúng lại được lai tạo với giống chó bun (Bulldog). Trước kia, giống chó này đã thu được nhiều giải thưởng như loại chó dùng để săn bò rừng và chó kéo xe. Tách xa hơn khỏi nguồn gốc của mình, tổ tiên của Boxer trở thành thành viên của các pháo đài cổ, và được sử dụng trong công việc chăn dắt đàn gia súc. Chúng cũng khá phổ biến trong các gánh xiếc rong và gánh hát lưu động bởi khả năng học hỏi các tiết mục khá nhanh nhạy. Việc lai tạo diễn ra tương đối bừa bãi cho đến tận năm 1904, khi mà chuẩn mực của giống chó này được đặt ra. Mặc dù có nguồn gốc từ nước Đức, nhưng tên gọi thuần Anh của chúng bắt nguồn từ cách sử dụng đôi chân trước như các võ sỹ quyền anh khi thượng đài. Ngày nay đây là một trong những giống chó thích hợp nhất cho các gia đình. Sự ưu việt của Boxer được thể hiện trong các công việc liên quan đến canh gác, bảo vệ, công việc của cảnh sát, quân đội, tìm kiếm cứu hộ…
-
Chó săn thỏ (beagle) là một giống chó nhỏ trong các chó săn và chuyên dùng để săn thỏ, chúng dễ nhận biết bởi bộ lông tam thể mềm mượt đặc trưng. Chúng rất dễ nuôi, thân thiện và đáng yêu với con người, có thể vừa trông nhà, vừa chơi đùa cùng trẻ con trong nhà. Khi được nuôi thả tự do, chúng thích đi khám phá mọi thứ nhờ vào chiếc mũi thính của mình. Chữ beagle vốn xuất phát từ "be’geule", chỉ thói quen reo hú của loài này sau những buổi đi săn. Chúng cũng rất thân thiện, dễ dàng làm quen với con người cũng như những con chó khác. Đây là một giống chó săn khá phổ biến, có đôi chút giống chó săn chân lùn (Basset hound) cả trong sự xuất hiện cũng như trong tính khí. Nguồn gốc của nó chưa được rõ ràng, cho dù chúng đã được nuôi tại Anh quốc trên 500 năm. Giống chó này có thể bắt nguồn từ lai tạo giữa giống Harrier và giống chó săn Anh khác. Beagle thường dùng để đi săn theo đàn, cũng có thể dùng một, hoặc một cặp chó để săn thỏ rừng, gà lôi và chim cút. Nó cũng được dùng như một loài chó phát hiện ma tuý tốt và là người tốt của gia đình. Do chúng khá đồng nhất trong kích thước, ở một kích thước nhỏ bé vừa phải, Beagle thường được dùng để thử nghiệm thuốc. Chúng được phân loại là chó săn loại nhỏ. Giống chó Beagle đã chứng tỏ khả năng thích ứng rất cao. Tại Anh quốc, chúng được sử dụng để săn thỏ, trong khi đó, tại Sri Lanka, chúng được cho săn heo rừng.
Là giống chó săn nhỏ, có thân hình vuông vắn, vững chắc, khoẻ mạnh. Giống chó này được nuôi với số lượng quá nhiều và với một số dòng chó, thể trạng và tính tình của chúng đã bị ảnh hưởng do việc lai tạo thiếu kiểm soát phát sinh từ việc nuôi quá nhiều này. Tuổi thọ chúng khoảng 12 - 15 năm, số chó con từ 2 - 14 con, trung bình là bảy con. Có vài dòng thuộc giống Beagle có khả năng đau tim, chứng động kinh, các vấn đề về mắt và lưng. Cũng có thể bị các chứng bệnh liên quan đến xương, sụn, hồng cầu, gây còi cọc và biến dạng về xương, chẳng hạn như ở chân trước giống như giống chó săn chân lùn. Một con chó săn thỏ tiêu chuẩn giống Beagle có bộ lông ngắn, bóng mượt và dễ chăm sóc, nó có thể gồm bất cứ màu lông thông thường nào của chó săn như tam thể, đen và nâu vàng, đỏ và trắng, vàng cam và trắng, hoặc màu vàng xanh sẫm và trắng. Bộ lông sát với người, cứng và có độ dài trung bình. Xương sọ rộng và hơi tròn, mõm thẳng, vuông vắn. Bàn chân tròn và chắc khỏe, cứng cáp. Mũi đen với lỗ mũi rộng để đánh hơi. Hai tai dài, rộng và nhô ra bên đầu. Mắt màu nâu hoặc màu nâu đỏ luôn biểu lộ sự cầu khẩn, xin xỏ. Đuôi của Beagle lúc nào cũng như đang vui mừng, nhưng đuôi không bao giờ cong lên trên lưng. Khi đi săn, Beagle có một giọng tru và tiếng sủa rất riêng biệt. Tiếng sủa của Beagle có thể đem lại niềm vui thích cho người thợ săn, nhưng lại làm phiền gia đình và những người hàng xóm. Beagle có khuynh hướng đi theo những gì chúng đánh hơi thấy.
-
Chó chăn cừu Đức còn gọi là chó Alsace là một giống chó kích cỡ lớn, xuất xứ từ Đức. Tại Việt Nam, giống chó này được gọi là chó Berger (béc-giê hay bẹc-giê), phiên âm từ tiếng Pháp berger cũng có nghĩa là chó chăn cừu. Chó chăn cừu Đức là một giống chó tương đối mới, phát sinh từ năm 1899. Chó chăn cừu Đức thuộc nhóm chó chăn gia súc, ban đầu được gây giống để chăn cừu. Do có sức lực, thông minh và có khả năng tuân thủ mệnh lệnh trong huấn luyện, chúng thường được dùng trong lực lượng cảnh sát và quân đội. Vì chúng rất trung thành và có bản năng bảo vệ chủ, chó chăn cừu Đức là một trong các nòi chó được đăng ký nhiều nhất. Chó chăn cừu Đức có kích thước trung bình, vai rộng khoảng từ 55 đến 65 cm, nặng khoảng 22 tới 40 kg. Chiều cao lý tưởng là 63 cm, theo tiêu chuẩn của Câu lạc bộ Kennel. Chúng có đầu tròn, mõm vuông dài, và mũi đen. Chó có hàm khỏe, với răng cắn có dạng kéo. Mắt chúng có kích thước trung bình, màu nâu, nhãn quang linh động, thông minh và tự tin. Tai lớn, dựng thẳng, hướng về phía trước và song song với nhau, nhưng thường rạp về phía sau khi chuyển động. Chúng có cổ dài, thường nghểnh lên khi kích động và hạ xuống khi chạy nhanh. Đuôi rậm, kéo dài tới khuỷu chân.
Chó chăn cừu Đức có thể có nhiều màu, màu phổ biến nhất là màu sẫm/đen và đỏ/đen với nhiều biên thể. Cả hai biến thể này đều có mặt đen, thân phủ đen từ dạng "yên ngựa" đến "mền". Các màu hiếm hơn gồm màu lông chồn đen, đen tuyền, trắng tuyền, màu gan, và các biến thể màu lam. Các màu đên tuyền và màu lông chồn được chấp nhận theo hầu hết các chuẩn, tuy nhiên màu lam và màu gan thường bị coi là các khiếm khuyết nghiêm trọng, và màu trắng thường bị coi là lý do để loại ngay tức khắc do không đạt tiêu chuẩn. Điều này có lý do là màu trắng rất dễ nhận biết, khiến cho chú chó không đủ tiêu chuẩn làm chó canh gác và khó nhận thấy trong điều kiện băng tuyết hay khi chăn cừu. Chó chăn cừu Đức có hai lớp lông. Lớp ngoài thường rụng suốt năm, rậm phủ sát thân, với lớp trong dày. Lông chó có hai dạng, dài và trung bình. Lông dài là biểu hiện của gene lặn, khiến cho biến thể lông dài ít thấy hơn. Chó chăn cừu Đức được duy trì vì sự thông minh đặc biệt của nó, một đặc tính khiến cho nó nổi danh. Chúng được coi là loài chó thông minh thứ ba, đứng sau Border Collie và Poodle. Trong quyển The Intelligence of Dogs, tác giả Stanley Coren đánh giá nòi này đứng thứ ba về trí thông minh. Ông nhận thấy chúng có khả năng học các nhiệm vụ đơn giản chỉ sau năm lần nhắc lại mệnh lệnh, và tuân thủ lệnh đầu tiên trong 95% trường hợp. Cùng với sức vóc, đặc tính này khiến cho nòi chó được ưa chuộng sử dụng làm chó cảnh sát, chó bảo vệ và chó cứu hộ, vì chúng có khả năng học nhanh chóng các nhiệm vụ khác nhau và hiểu hướng dẫn tốt hơn các loài chó khác.
-
Chó Husky Sibir là một giống chó cỡ trung thuộc nòi chó kéo xe có nguồn gốc từ vùng Đông Bắc Sibir, Nga. Xét theo đặc điểm di truyền, chó Husky được xếp vào dòng Spitz. Chó Husky có hai lớp lông dày, tai dựng hình tam giác và thường có những điểm nhận dạng khác nhau trên lông. Chó Husky là giống chó rất ưa thích vận động do tổ tiên của chúng sống ở một trong những nơi lạnh giá nhất như Siberia, ở đây chó Husky nguyên thủy được phối giống bởi người Chukchi ở Đông Bắc Á nhằm mục đích kéo xe hàng trên một quãng đường dài trong điều kiện lạnh giá khắc nghiệt. Giống chó này được đưa tới Alaska trong thời kì khai thác vàng ở Nome rồi sau đó trở nên phổ biến ở Hoa Kỳ và Canada. Ban đầu Husky được nuôi để làm chó kéo xe nhưng về sau chúng trở thành thú nuôi trong gia đình. Các giống chó Husky Sibir, Samoyed, và Alaskan Malamute đã được công nhận đều có chung nguồn gốc từ một giống chó cổ đại theo kết quả ADN công bố năm 2004. Từ năm 1908, chúng được du nhập vào Alaska trong thời kỳ khai thác vàng và được sử dụng là chó kéo xe và chó đua xe. Ở đây, xe kéo bởi vì chó Husky nhanh chóng trở thành phương tiện phổ biến lúc bây giờ.
Lông của giống Husky dày hơn đa phần lông các giống chó khác gồm 2 lớp, một lớp lông dày và ngắn lót phía trong và một lớp lông mỏng hơn, dài hơn bao phủ bên ngoài giúp bảo vệ chúng khỏi cái lạnh khắc nghiệt vùng băng giá. Chúng có thể chịu được cái lạnh từ −50 đến −60°C. Chó husky thay lông tơ thường xuyên, nếu sống cùng con người thì cần chải lông hàng tuần. Chó Husky Sibir có rất nhiều màu lông khác nhau nhưng hầu hết sẽ có chân, mõm, đốm cuối đuôi là lông trắng. Thường gặp nhất là Husky có màu lông đen - trắng, sau đó là nâu - trắng, xám - trắng và màu lông hiếm "agouti". Mắt chó Husky hình quả hạnh nhân đặt cách nhau vừa phải và hơi xếch lên. Màu mắt cũng đa dạng như xanh da trời, xanh nước biển, màu hổ phách, xanh lá cây, hoặc nâu. Một số con có thể có 2 mắt với mỗi mắt là một màu khác nhau. Cũng có thể có một hoặc cả hai mắt có màu pha trộn (parti-colored) nửa xanh nửa nâu. Tất cả những màu mắt nêu trên đều được chấp nhận là mắt của Husky "thuần chủng". Đuôi của chó Husky dài và rất rậm lông, chúng thường hay cụp đuôi nếu không có hoạt động, khi chạy nhảy hoạt động chúng thường uốn cong đuôi lên lưng để cơ thể có thêm độ ấm. Đây cũng là đặc điểm chung của một số giống chó có nguồn gốc từ xứ lạnh như Akita, Alaskan Malamute hay Samoyed. Khi ngủ chó Husky sẽ vòng đuôi qua mõm để giữ ấm cho mũi. Chúng sẽ hạ thấp đuôi khi thư giãn và dựng cong đuôi khi phấn khích hoặc tò mò.