Top 8 Đoạn văn cảm nhận về chi tiết ấn tượng nhất trong "Quang Trung đại phá quân Thanh"
Quang Trung là bậc anh hùng lão luyện, là nhà quân sự đại tài mà lịch sử đời đời ghi nhớ, nhân dân ta đời đời biết ơn. Xây dựng và khắc họa hình tượng người ... xem thêm...anh hùng Nguyễn Huệ là một thành công đặc sắc của các văn sĩ trong Ngô gia văn phái. Nó làm cho trang văn “Hoàng Lê nhất thống chí” thấm đẫm chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng Đại Việt. Trong đoạn trích Quang Trung đại phá quân Thanh, chúng ta cùng phân tích những chi tiết ấn tượng và hay nhất nhé:
-
Trong đoạn trích Quang Trung đại phá quân Thanh, tôi ấn tượng với chi tiết miêu tả cuộc chạy trốn của vua tôi Lê Chiếu Thống. Khi nghe tin quân Thanh đại bại, vua Lê Chiêu Thống cùng bầy tôi đã tìm cách chạy trốn - đây là hành động thông thường của một kẻ bán nước. Tác giả miêu tả: “Vua Lê ở trong điện, nghe tin có việc biến ấy, vội vã cùng bọn Lê Quýnh, Trịnh Hiến đưa thái hậu ra ngoài. Cả bọn chạy đến bến sông thì thấy cầu phao đã đứt, thuyền bè cũng không, bèn gấp rút chạy đến Nghi Tàm, thình lình gặp được chiếc thuyền đánh cá, vội cướp lấy rồi chèo sang bờ bắc”. Đường đường là vua của một đất nước, nhưng giờ đây, vua Lê lại phải chạy trốn, thậm chí còn phải cướp thuyền của ngư dân để chạy trốn, dường như đã mất hết tôn nghiêm, quyền lực. Tình cảnh của vua Lê càng lúc càng thảm hại: “vua Lê và những người tuỳ tòng luôn mấy ngày không ăn, ai nấy đều đã mệt lử”, sau phải nương nhờ một người thổ hào, cúi mình xin giúp đỡ. Ở đoạn này, tác giả đã miêu tả khá dài với âm hưởng âm hưởng chậm rãi, nhẹ nhàng hơn nhằm thể hiện sự chua xót, ngậm ngùi. Qua đó, tác giả muốn thể hiện tấm lòng tôn kính với một vương triều mình từng phụng thờ.
-
Khi đọc Quang Trung đại phá quân Thanh, tôi cảm thấy ấn tượng với chi tiết vua Quang Trung nhận định về tình hình địch và ta qua lời phủ dụ lúc lên đường ở Nghệ An. Nhà vua đã chỉ rõ “đất nào sao ấy” để cho thấy việc sang xâm lược của kẻ thù là sai trái: “người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác”. Tội ác của kẻ thù cũng được chỉ rõ: “Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại dân ta, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi”. Những tấm gương được đưa ra để khích lệ tinh thần binh sĩ như Trưng nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành. Ông còn đánh vào ý thức của mỗi binh sĩ: “các người đều là những người có lương tri, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực để dựng lên công lớn. Chớ có quen thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai”. Điều này cho thấy sự nghiêm khắc nhưng cũng rất thấu hiểu của vị vua này. Qua đây, chúng ta có thể thấy vua Quang Trung có hành động mạnh mẽ, quyết liệt và thấu hiểu lòng người.
-
Trong tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí” hồi thứ 14, hình tượng Nguyễn Huệ nổi lên sáng ngời phẩm chất của một người anh hùng. Điều đó được thể hiện rõ nét qua hành động mạnh mẽ, quyết đoán, trí tuệ sáng suốt, sâu sắc, nhạy bén, ý chí quyết thắng, tầm nhìn xa trông rộng và tài dụng binh như thần, oai phong lẫm liệt trong trận đấu. Trong mọi tình huống, Nguyễn Huệ luôn thể hiện là một con người hành động xông xáo, nhanh gọn, có chủ đích và quả quyết vô cùng. Nghe tin giặc đánh chiếm đến tận Thăng Long mà ông không hề nao núng “định thân chinh cầm quân đi ngay”. Rồi sau đó, chỉ trong vòng một tháng, Nguyễn Huệ làm được nhiều việc lớn. Ông còn là một người có trí tuệ sáng suốt hơn người, trí tuệ ấy được biểu hiện trong việc xét đoán, dùng người, biết phân tích tình hình thời cuộc và tương quan ta-địch. Qua lời phủ dụ quân lính ở Nghệ An, ông đã đánh thức, khơi dậy ý thức độc lập cũng như tinh thần tự hào dân tộc, tinh thần quật khởi để kích thích mọi người. Khi mới khởi binh đánh giặc, chưa giành được tấc đất nào vậy mà Quang Trung tuyên bố như đinh đóng cột “phương lược tiến đánh đã có tính sẵn”, còn tính sẵn cả kế hoạch ngoại giao sau khi thắng một nước lớn gấp mười lần nước mình. Điều đó đã thể hiện ý chí quyết thắng, tầm nhìn xa trông rộng của một vị vua sáng suốt, một người anh hùngkhông chỉ chiến đấu trên danh nghĩa, chỉ huy một chiến dịch thực sự. Khí thế của nghĩa quân Tây Sơn khiến kẻ thù khiếp vía thốt nên rằng “tướng ở trên trời xuống, quân ở dưới đất lên”. Nổi bật trong trận đánh là hình ảnh Quang Trung “cưỡi voi đốc thúc, mặc áo bào đỏ, mặt sạm đen khói súng.” Thật oai phong, lẫm liệt biết nhường nào! Quang Trung - Nguyễn Huệ thật sự là một người anh hùng trí dũng song toàn, sáng ngời hào khí dân tộc.
-
Đọc “Hồi thứ 14” trong “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô gia văn phái, ta thấy người anh hùng áo vải Quang Trung - Nguyễn Huệ là một bậc kì tài quân sự. Khi nghe được tin cấp báo quân Thanh sang xâm lược nước ta, ông đã tự mình vạch ra phương lược tiến đánh. Ông trực tiếp chỉ huy đại binh thần tốc, bí mật tiến ra Bắc, một cuộc tiến công chưa từng có trong lịch sử trước đó. Ông là người có tài điều binh khiển tướng, tài đó được thể hiện rõ nhất trong lời phủ dụ quân lính ở Nghệ An và trong cách xử trí tướng sĩ. Lời hịch của ông là lời của non sông đất nước, kích thích lòng yêu nước, khơi gợi chí căm thù và khích lệ tinh thần xả thân cứu nước. Cách đánh giặc của Quang Trung đa dạng, linh hoạt, phong phú và luôn ở thế chủ động khiến quân giặc trở tay không kịp. Khi thì bí mật bao vây giặc ở đồn Hà Hồi; lúc thì áp sát đánh giặc dũng cảm, táo bạo ở đồn Ngọc Hồi; lúc đánh nghi binh ở đê Yên Duyên; khi mai phục ở Đầm Mực… Quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của Quang Trung tiến quân như vũ bão khiến giặc đại bại “thây chất đầy đồng, máu trôi đỏ nước”, tướng Sầm Nghi Đống “thắt cổ tự vẫn”, Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy về nước “ngựa không kịp đóng yên”… Quả thật, Quang Trung là bậc anh hùng lão luyện, là nhà quân sự đại tài mà lịch sử đời đời ghi nhớ, nhân dân ta đời đời biết ơn. Xây dựng và khắc họa hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ là một thành công đặc sắc của các văn sĩ trong Ngô gia văn phái. Nó làm cho trang văn “Hoàng Lê nhất thống chí” thấm đẫm chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng Đại Việt.
-
Hồi thứ 14 Quang Trung đại phá quân Thanh có nhiều chi tiết nghệ thuật đặc sắc trong đó chi tiết ở cuối tác phẩm đã để lại cho em ấn tượng sâu sắc nhất. Đó là chi tiết khi vua quan Lê Chiêu Thống hội ngộ với nhau “cùng nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt”. Chi tiết đã cho thấy sự thê thảm đến cùng cực, sự đớn hèn đến tột độ của bè lũ tay sai bán nước. Thua trận lại bị nghĩa quân Quang Trung truy sát vua quan Lê Chiêu Thống đã phải dắt díu nhau bỏ trốn. Chúng không còn con đường nào để chối tội, may thay nhờ sự giúp đỡ của người thổ hào nên đã thoát chết. Nhưng khi hội ngộ gặp lại nhau và gặp lại tướng Tôn Sỹ Nghị bọn chúng mới thấy xấu hổ và nhục nhã về sự thất bại thảm hại của mình. Cho nên nhìn nhau oán giận, than thở, chảy nước mắt. Chi tiết vừa cho thấy cái nhìn thương cảm của Ngô gia văn phái với chế độ chính quyền mà mình đã tôn thờ. Vừa cho thấy tình cảnh bi đát và tội nghiệp của bè lũ bán nước.
-
Quang Trung đại phá quân Thanh trích chương thứ 14 của tiểu thuyết Hoàng Lê nhất thống chí. Hồi thứ 14 này đã xây dựng thành công chân dung vị vua áo vải thông minh kiệt xuất với tài xuất quỷ, nhập thần khiến bè lũ vua quan bán nước và quân địch khiếp sợ. Quang Trung hiện lên với vẻ đẹp của một vị tướng tài và nhờ nhiều chi tiết nghệ thuật đặc sắc. Trong số đó chi tiết sau khi nghe tin giặc đến, Quang Trung tức giận, liền họp các tướng sĩ, định thân chinh cầm quân đi ngay để lại cho em ấn tượng sâu đậm hơn cả. Tuy chỉ là một chi tiết rất nhỏ trong văn bản nhưng đã chứng minh cho phẩm chất và tinh thần yêu nước nồng nàn của vị chủ tướng. Sự căm giận quân giặc luôn sục sôi trong huyết quản của người anh hùng áo vải. Vì thế chỉ nghe tin giặc đến, ý chí ấy lại thành ngọn sóng cuồn cuộn dâng khiến Quang Trung quyết ra trận để đuổi tan bè lũ xâm lăng. Điều đó càng khắc hoạ vẻ đẹp của tinh thần yêu nước, quyết tâm xả thân vì chủ quyền dân tộc của vị anh hùng áo vải.
-
Trong lịch sử dân tộc có rất nhiều người anh hùng đã đi vào thơ ca nhạc họa. Đặc biệt hơn đó là người anh hùng anh vải Quang Trung - Nguyễn Huệ đã được khắc họa rất chân thực trong tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái. Ông là người có công trong trận chiến đại phá quân Thanh. Qua trận chiến ông thể hiện được sự dũng mãnh, tài trí, tầm nhìn xa trông rộng. Để giành được chiến công vang đội đến ngày hôm nay thì ông phải là người hành động mạnh mẽ và quyết đoán, khi nghe tin giặc đã chiếm thành Thăng Long, mất cả một vùng đất đai rộng lớn mà ông không hề nao núng, “ định thân chinh cầm quân đi ngay”. Rồi trong vòng chỉ một tháng, Nguyễn Huệ đã làm bao nhiêu việc lớn: “ tế cáo trời đất”, “lên ngôi hoàng đế”, “ đốc suất đại binh’’ ra Bắc gặp gỡ “người cống sĩ ở huyện La Sơn”, tuyển mộ quân lính và mở các cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng. Và không chỉ vậy hình ảnh Nguyễn Huệ trong chiến trận cũng để lại cho chúng ta ấn tượng về một vị hoàng đế thân chinh cầm quân đánh giặc không phải chỉ trên danh nghĩa. Ông đã hoạch định phương lược tiến đánh, tổ chức quân sĩ, tự mình thống lĩnh mũi tên tiến công, cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha trước hòn tên mũi đạn, bày mưu tính kế…Dưới sự lãnh đạo tài tình của vị chỉ huy này đã đánh những trận thật đẹp, thắng áp đảo kẻ thù (bắt sống hết quân do thám của địch ở phú Xuyên, giữ được bí mật để tạo thế bất ngờ, vây kín làng Hạ Hồi…).Vậy nên cho đến ngày nay người ta vẫn còn ca ngợi và thán phục mưu trí, tài dùng binh của ông, là một tấm gương sáng để mọi người noi theo và học tập.
-
Khi đọc văn bản Quang Trung đại phá quân Thanh, tôi cảm thấy ấn tượng nhất với chi tiết Tôn Sĩ Nghị tháo chạy sau khi quan Thanh thất bại. Chi tiết này nằm ở cuối văn bản Quang Trung đại phá quân Thanh. Khi biết tin quân Tây Sơn sắp tiến đến: “Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo, dẫn bọn lính kị mã của mình chuồn trước”. Tác giả đã khắc họa hình ảnh Tôn Sĩ Nghị tháo chạy bằng việc sử dụng biện pháp tu từ phóng đại. Từ đó. chúng ta thấy được hình ảnh một tên tướng giặc hèn nhát. Thân là tướng, nhưng khi quân đội thua trận, đáng ra phải ở lại trấn an các binh sĩ, thì Tôn Sĩ Nghị lại tìm cách tháo chạy thật nhanh. Bởi vậy mà lúc này, quân Thanh như rắn mất đầu, tình cảnh càng thảm hại hơn, tất cả đều hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu bắc sông, xô đẩy nhau đến nỗi rơi xuống sông mà chết. Như vậy, chi tiết trên đã góp phần khắc họa được tình cảnh thảm hại của quân Thanh lúc thua trận.