Top 10 Dàn ý phân tích tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu hay nhất
Nguyễn Minh Châu là nhà văn tài ba. Những tác phẩm của ông để lại dấu ấn sâu sắc với người đọc như: "Mảnh trăng cuối rừng", "Bức tranh" và đặc biệt là tác phẩm ... xem thêm..."Chiếc thuyền ngoài xa" viết vào những năm đầu thời kì đổi mới. Truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" thể hiện một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa dạng nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. Đồng thời tác phẩm in đậm phong cách tự sự triết lí của Nguyễn Minh Châu: với cách khắc họa nhân vật, xây dựng cốt truyện độc đáo và sáng tạo. Để giúp các bạn phân tích truyện "Chiếc thuyền ngoài xa" hay nhất, ấn tượng nhất với người chấm, Toplist chia sẻ một số dàn ý chọn lọc sau đây:
-
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Minh Châu, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa.
- Dẫn dắt giới thiệu nội dung cần phân tích: tình huống truyện của Chiếc thuyền ngoài xa.
II. Thân bài
1. Tình huống truyện là gì?
Là hoàn cảnh được tác giả tạo dựng bằng một sự kiện đặc biệt để từ đó thể hiện được chủ đề, tư tưởng của tác giả.
2. Phân tích tình huống truyện trong Chiếc thuyền ngoài xa
* Tình huống truyện trong “Chiếc thuyền ngoài xa” được xây dựng qua việc phát hiện ra những nghịch lý của nghệ sĩ Phùng:
- Phát hiện về nghệ thuật: Bức tranh thiên nhiên toàn bích của chiếc thuyền lưới vó đang tiến gần bờ trong buổi sớm mai “Trước mắt tôi là một bức tranh mực tàu... tôi tưởng chính mình vừa khám phá cái chân lý của sự hoàn thiện...”. Trong đôi mắt người nghệ sĩ khát khao cái đẹp thì đó là “cảnh đắt trời cho” chứa đựng chân lý sự hoàn thiện, khiến tâm hồn anh như được gột rửa, thanh lọc.
- Phát hiện bức tranh cuộc sống đầy nghịch lý: Đằng sau khung cảnh đẹp như mơ ấy là hình ảnh một người đàn bà thô kệch xấu xí, mặt đầy sự mệt mỏi bước ra và một lão chồng với tấm lưng rộng, mái tóc tổ quạ, đôi mắt độc dữ cùng bước ra từ con thuyền. Lão chồng độc ác, vũ phu: “dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”, “vừa đánh vừa nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn”. Thằng bé Phác yêu thương mẹ hết mực, căm giận người cha…
* Câu chuyện về cuộc đời người đàn bà khi ở tòa án huyện:
- Người đàn bà dù bị đánh đập, bị nguyền rủa mỗi ngày bởi người chồng vũ phu nhưng khi tòa khuyên bà bỏ chồng thì bà lại van xin “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”.
- Với bà “người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông” là rất khó khăn. Dù người đó có vũ phu thì cũng cần đến những lúc sóng gió ngoài biển khơi.
- Niềm vui của bà là được ngắm con cái ăn no, ngủ say và chờ đợi những đôi lúc “vợ chồng con cái hòa thuận vui vẻ”, người đàn bà trên thuyền sống vì con.
3. Ý nghĩa của tình huống truyện
*Tư tưởng và chủ đề của tác phẩm được thể hiện qua tình huống truyện:
- Cuộc sống vốn là bức tranh nhiều màu sắc, nhiều nghịch lý mà khi nhìn vẻ bề ngoài khó lòng mà đánh giá. Từ cái nhìn của chánh án Đẩu, tác giả cho ta cái nhìn đa chiều, toàn diện.
- Đôi khi thiện chí không là chưa đủ để giúp đỡ ai đó, cần phải gắn liền với thực tế để trải nghiệm, thấu hiểu họ.
- Nghệ thuật không thể tách rời cuộc đời, nó phải có cội rễ từ đời sống và phản ánh đời sống chân thật nhất.
*Tình huống truyện còn mang ý nghĩa nền tảng để nhà văn xây dựng thành công nhân vật:
- Người đàn bà hàng chài với nỗi khổ cả thể xác lẫn tâm hồn thế nhưng vẫn ngời lên đức tính tốt đẹp của người phụ nữ.
- Người đàn ông vũ phu là kết quả của cuộc sống túng thiếu, bế tắc.
- Phùng, người nghệ sĩ tha thiết với cuộc đời
- Đẩu, vị chánh án có lòng tốt nhưng cả hai còn thiếu kinh nghiệm sống
*Tình huống truyện chứa đựng giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc của nhà văn:
- Giá trị hiện thực: Cuộc sống đói nghèo lạc hậu tăm tối là nguyên nhân dẫn tới nạn bạo hành gia đình. Cuộc chiến đấu bảo vệ quyền sống của cả dân tộc trải qua bao hy sinh gian khổ nhưng cuộc đấu tranh bảo vệ quyền sống của từng con người còn đầy cam go, lâu dài, cần có sự quan tâm của cách mạng, của cộng đồng.
- Giá trị nhân đạo: Sự chia sẻ cảm thông của tác giả với những số phận đau khổ tủi nhục của những người lao động vô danh đông đảo trong xã hội. Lên án, đấu tranh với cái xấu, cái ác vẫn còn tồn tại trong từng gia đình. Phát hiện, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người lao động.
III. Kết bài
Tình huống truyện là một thành công lớn của truyện ngắn nói chung và của tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” nói riêng.
-
1. Mở bài
Không phải ngẫu nhiên mà có người cho rằng Nguyễn Minh Châu là nhà văn của những biểu tượng. Bởi lẽ, trong tác phẩm của mình, Nguyễn Minh Châu thường không trực tiếp phát biểu ra những suy nghĩ, quan điểm mà chỉ bộc lộ những suy nghĩ, cách nhìn về cuộc đời qua những biểu tượng, những hình tượng đa nghĩa. Và có lẽ, hình tượng “chiếc thuyền ngoài xa” trong truyện ngắn cùng tên của ông cũng như vậy.
2. Thân bài
- Hình ảnh chiếc thuyền xuất hiện xuyên suốt trong câu chuyện mà nhà văn mang đến cho người đọc. Bắt đầu từ yêu cầu của người trưởng phòng “lắm sáng kiến” đối với nhân vật xưng “tôi”, người nghệ sĩ nhiếp ảnh: “…Chúng ta sẽ mang đến cho mỗi gia đình một bộ sưu tập về thuyền và biển, không có người. Hoàn toàn thế giới tĩnh vật”. Tiếp đó là hình ảnh chiếc thuyền “mới đóng xong vẫn còn thơm mùi gỗ lẫn mùi dầu rái”, rồi tiếp theo nữa là “một nhóm chừng dăm bảy chiếc thuyền vó vừa tắt đèn” và cuối cùng tập trung vào “một chiếc thuyền lướt vó… đang chèo thẳng vào trước mặt tôi”.
- Hình ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa” được nhà văn khắc họa rất ấn tượng: “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu trời sương mù trắng như sữa pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Hình ảnh đó mang một “vẻ đẹp thực sự đơn giản và toàn bích” - vẻ đẹp của “một bức tranh bằng mực Tàu của một danh họa thời cổ”, và tất cả vẻ đẹp đó đã được nhà nghệ sỹ nhiếp ảnh của chúng ta thu vào một tấm ảnh mà nó “được treo ở rất nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật”.
- Hình ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa” giờ đã hóa thân thành một tác phẩm nghệ thuật để mọi người nhìn ngắm, chiêm ngưỡng với tất cả những vẻ đẹp về màu sắc, đường nét, bố cục…và khi thưởng thức bức ảnh đó, những người sành nghệ thuật thể có cái cảm giác “trở nên bối rối”, cảm thấy “trái tim như có cái gì bóp thắt vào” và “khám phá thấy cái chân lý của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”…như cái cảm giác mà “tôi” đã từng có.
- Song, dù có là người sành nghệ thuật đến đâu, cũng không ai khám phá ra được: Đó là những con người, những cuộc đời, những số phận đầy trớ trêu, nghịch lý đã, đang và sẽ còn tiếp tục sống quay quắt bên trong chiếc thuyền ấy. Một người vợ nhẫn nhục cam chịu một cách tự nguyện những trận đòn thịnh nộ của anh chồng với “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” chỉ vì chiếc thuyền ấy, gia đình ấy (với trên dưới mười con người) cần có ông ta chèo chống lúc phong ba; Một đứa con trai yêu mẹ đến nỗi định giết cả bố mình… Cái sự thật bên trong ấy chỉ được người thợ chụp ảnh nhận ra khi “chiếc thuyền đâm thẳng vào chỗ tôi đứng”, tức là ở một khoảng cách gần, rất gần!
- Với chi tiết này, câu chuyện dường như đã mở ra hai hình ảnh, hai thế giới khác hẳn: Chiếc thuyền ngoài xa mang lại vẻ đẹp hoàn mỹ cho một tấm ảnh, còn chiếc thuyền khi đến gần lại làm vỡ ra một hiện thực nghiệt ngã đến xót xa của số phận con người.
- Vậy nên, có thể nói hình tượng “Chiếc thuyền ngoài xa” đích thực là một ẩn dụ nghệ thuật hoàn toàn có dụng ý của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Giải mã hình tượng ẩn dụ đó, người đọc sẽ nhận ra một thông điệp mà nhà văn truyền đi, rằng cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời.
- Chính vì thế, cho dù chỉ là một bức ảnh “hoàn toàn thế giới tĩnh vật” (hay nói đúng hơn là vẫn có con người nhưng đó chỉ là “những bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng”) nhưng nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh của chúng ta – cũng là người đã trực tiếp nhận ra những số phận ẩn tàng bên trong nó – bao giờ cũng như thấy “một người đàn bà bước ra ” sau mỗi lần suy tư, ngắm nhìn thành quả nghệ thuật mà mình tạo ra nhờ cái giây phút “trời cho” ấy.
3. Kết bài
Khẳng định lại giá trị của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa.
-
I. Mở bài
- Nguyễn Minh Châu được coi là một trong những cây bút đi tiên phong của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, như nhà văn Nguyên Ngọc ca ngợi: “Nguyễn Minh Châu thuộc số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay”. Sự tinh anh và tài năng của Nguyễn Minh Châu được thể hiện qua quá trình tư duy nghệ thuật ở những tác phẩm: “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”, “Bến quê”, “Bức tranh”, “Chiếc thuyền ngoài xa”…
- Đặc biệt với truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” viết năm 1983 được coi là tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong thời kỳ đổi mới văn học. Đọc tác phẩm, bên cạnh những nhân vật như nghệ sĩ Phùng, chánh án Đẩu, người đàn bà hàng chài… đã để lại trong lòng ta những ấn tượng đẹp thì phải kể đến một nhân vật nữa cũng làm ta day dứt không yên, đó là gã đàn ông hàng chài vũ phu, tàn độc.
II. Thân bài
1. Sự xuất hiện của nhân vật
Trong tác phẩm, người đàn ông hàng chài là nhân vật xuất hiện không nhiều trên trang văn. Người đàn ông hàng chài xuất hiện lần thứ nhất dưới đôi mắt của Phùng khi chứng kiến cảnh đánh vợ tàn bạo của hắn và lần thứ hai là qua lời kể của người đàn bà (vợ hắn) ở tòa án huyện mà ta biết về lai lịch và nguyên nhân của sự bạo hành kia.
2. Lai lịch của nhân vật
- Trước bảy nhăm, người đàn ông này không đi lính ngụy mà trốn quân dịch cho nên cuộc sống của hắn nghèo khổ, túng quẫn và gặp người đàn bà hàng chài nên vợ nên chồng.
- Lúc bấy giờ, anh ta “là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm”, không bao giờ đánh vợ con, không biết uống rượu, không biết hút thuốc…
3. Ngoại hình của người đàn ông
- Chỉ bằng vài nét miêu tả ngoại hình về gã đàn ông hàng chài, khi chiếc thuyền đâm thẳng vào bờ, nhà văn đã cho ta biết được cuộc sống đói nghèo, lam lũ, chật chội quẩn quanh hằn in lên dáng vẻ khắc khổ của ông ta:
- Lưng rộng và cong như một chiếc thuyền.
Mái tóc tổ quạ.
Chân đi chữ bát, bước từng bước chắc chắn.
Hàng lông mày cháy nắng.
Hai con mắt độc dữ...
=> Chính hoàn cảnh sống đó đã làm cho ông ta thay đổi tâm tính trở thành kẻ vũ phu và coi cái việc đánh vợ như một sự giải tỏa nỗi ẩn ức, bế tắc trong lòng mình.
4. Lời nói và hành động
- Lời nói cộc cằn, hung dữ như quát đối với vợ: “Cứ ngồi yên đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”. Đó là lời nói của một kẻ gia trưởng tự cho mình cái quyền được hành hạ người khác, cứ mở miệng ra là đòi giết, là muốn người ta chết…
- Hành động đánh vợ của gã đàn ông diễn ra một cách thô bạo “Lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa… chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy… quất tới tấp vào lưng người đàn bà”. Hành động đánh vợ của gã đàn ông này quá tàn nhẫn, thú tính như đối với một kẻ thù của thời trung cổ…
- Đi đôi với hành động trên là những lời chửi mắng độc địa của ông ta về người vợ “lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Đó là lời của kẻ thất học, vô văn hóa đang khốn cùng vì gánh nặng của vợ “mày chết đi”, vì gánh nặng của con “chúng mày chết hết đi” đè lên đôi vai, biến ông ta trở thành kẻ độc ác, ích kỉ, tàn nhẫn ngay cả đối với những người thân yêu nhất của mình.
- Sự tàn độc của gã đàn ông thuyền chài không phải thỉnh thoảng mới xảy ra mà nó diễn như cơm bữa: “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn”. Hành động bạo hành của ông ta đâu phải chỉ có đối với người đàn bà khốn khổ (vợ hắn) mà còn đối với những đứa trẻ tội nghiệp (con hắn): “Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát”. Đó đâu phải là hành động của một người cha có văn hóa biết giáo dục con cái mà là hành động man rợ của một con thú không có tính người. Chính vì thế, nhà văn đã có một so sánh rất hay về gã đàn ông thuyền chài này: “nom lão như một con gấu đang đi tìm nguồn nước uống, hai bàn chân chữ bát để lại những vết chân to và sâu trên bãi cát hoang vắng”.
- Nhưng người đàn ông cũng là một kẻ đáng thương. Tính chất lưỡng phân ở con người này không hẳn là tính cách bẩm sinh mà một phần không nhỏ là do cảnh ngộ đẩy vào. Ngay cả khi quất tới tấp cái thắt lưng có khóa sắt vào lưng vợ, vừa thở hồng hộc vừa nghiến răng ken két. Cái cách “thở hồng hộc” đúng là vũ phu rồi. Nhưng còn tiếng nghiến răng “ken két” cùng “cái giọng rên rỉ đau đớn” kia thì phải chăng có cả sự đau đớn, xót xa. Giận đời, giận vợ, giận cả mình nữa. Tất cả biến thành phẫn nộ vì bế tắc, cùng đường, thể hiện bằng ngôn ngữ của chiếc thắt lưng da. Đánh vào lưng vợ, lão như đánh vào một cái gì đó vô hình, đánh vào cái mà vì nó mà hắn khổ.
III. Kết bài
- Tóm lại, người đàn ông thuyền chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” vừa đáng bị lên án bởi sự độc ác, thói vũ phu, tính ích kỉ, tự cho phép mình cái quyền được hành hạ người khác để thỏa mãn những bức dọc trong lòng. Nhưng ở anh ta cũng có chỗ có thể cảm thông, chia sẻ bởi xét đến cùng anh ta cũng chỉ là một nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt.
- Qua nhân vật người đàn ông thuyền chài, Nguyễn Minh Châu cũng muốn gửi đến chúng ta một thông điệp: Trước mọi sự vật, hiện tượng nói chung và cuộc sống con người nói riêng, chúng ta cần phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều. Đúng như tác giả đã từng tâm sự: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”.
-
I. Mở bài
Giới thiệu về nhân văn Nguyễn Minh Châu, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa. Dẫn dắt đến nội dung cần phân tích: nghịch lí trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa.
II. Thân bài
1. Những nghịch lý được Phùng phát hiện khi ở ngoài bãi biển
- Phát hiện thứ nhất đầy thơ mộng: Bức tranh thiên nhiên toàn bích của chiếc thuyền lưới vó đang tiến gần bờ trong buổi sớm mai “trước mắt tôi là một bức tranh mực tàu... tôi tưởng chính mình vừa khám phá cái chân lí của sự hoàn thiện...”. Trong đôi mắt người nghệ sĩ khát khao cái đẹp thì đó là “cảnh đắt trời cho” chứa đựng chân lí sự hoàn thiện, khiến tâm hồn anh như được gột rửa, thanh lọc.
- Phát hiện thứ hai đầy nghịch lí, phi nghệ thuật: Cảnh tượng xấu xí: người đàn bà xấu xí, mệt mỏi, người đàn ông cục mịch, hung bạo. Thiếu tính người: người chồng đánh đập vợ thô bạo, đứa con bảo vệ mẹ, đánh lại cha.
- => Người nghệ sĩ cay đắng nhận ra: đằng sau cái đẹp cảnh “đắt” trời cho là khung cảnh xấu xí, chứa đựng sự thật tàn nhẫn - nạn bạo hành gia đình.
2. Những nghịch lý được Phùng phát hiện khi ở tòa án huyện
- Người đàn bà dù bị đánh đập, bị nguyền rủa mỗi ngày bởi người chồng vũ phu nhưng khi tòa khuyên bà bỏ chồng thì bà lại van xin “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Với bà “người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông” là rất khó khăn. Dù người đó có vũ phu thì cũng cần đến những lúc sóng gió ngoài biển khơi.
- Người đàn bà xấu xí, thất học nhưng lại am hiểu sự đơn, giàu tình yêu thương và lòng vị tha: “Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu phải là người làm ăn…”, “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ…”, “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng nó được ăn no”...
3. Ý nghĩa của những nghịch lí
- Đằng sau cái đẹp của ngoại cảnh là cái xấu xa của cuộc sống bị khuất lấp.
- Người họa sĩ cần phải có cái nhìn đa diện trước cuộc sống.
- Cần phải có cái nhìn đa diện về cuộc sống, không nhìn hiện tượng mà đánh giá toàn bộ bản chất của vấn đề.
III. Kết bài
Khẳng định lại giá trị của những nghịch lí trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa.
-
I. Mở bài
Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm và nội dung vấn đề cần phân tích.
II. Thân bài
1. Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa gắn liền với phát hiện thứ nhất - về cái tuyệt mĩ, tuyệt thiện
- “Cảnh đắt trời cho”:
- Hình ảnh chiếc thuyền thơ mộng, thanh bình xuất hiện giữa bầu sương mù trắng như sữa lại pha chút hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào.
Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im như tượng trên chiếc mui khum khum đang hướng mặt vào bờ.
=> Là bức họa diệu kỳ do thiên nhiên, cuộc sống ban tặng cho con người; là sản phẩm quý hiếm của hóa công mà trong đời người nghệ sĩ nhiếp ảnh nào cũng khao khát được chứng kiến. - Cảm nhận của người nghệ sĩ:
- Thấy rung động: “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”.
Thấy tâm hồn mình được thanh lọc, gột rửa.
2. Hình ảnh bạo lực trên thuyền gắn liền với phát hiện về cuộc sống của người nghệ sĩ
- Đằng sau cái đẹp toàn mỹ là hiện thân của cái xấu, là hiện thực trần trụi: bước ra khỏi chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ là người đàn bà xấu xí trạc ngoài 40 tuổi, rỗ mặt… Đi sau người đàn bà là người đàn ông cao lớn, dữ dằn, tấm lưng rộng và cong như lưng của một chiếc thuyền…
- Đằng sau cái đẹp được gọi là toàn thiện là hiện thân của cái ác, là cảnh tượng tàn nhẫn, điển hình của bạo lực gia đình: người đàn bà đi trước, người đàn ông lẳng lặng đi sau không nói câu nào…đột nhiên bỗng trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay,…, dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp lên người của người đàn bà, người đàn bà đứng im không chống trả, đứa bé chạy ra…
=> Cảm nhận của nghệ sĩ Phùng: “kinh ngạc đến thẫn thờ”, “mấy phút đầu cứ đứng há mồm ra mà nhìn”, “chết lặng”…
3. Ý nghĩa
- Nhận thức của người nghệ sĩ: Cuộc sống không hề đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng rất nhiều nghịch lý. Cuộc sống luôn tồn tại những điều tốt - xấu, thiện - ác.
- Sứ mệnh người nghệ sĩ: Đừng bao giờ nhầm lẫn hiện tượng và bản chất, đừng bao giờ nhầm lẫn giữa hình thức bề ngoài với nội dung thực chất bên trong, đừng vội đánh giá sự vật, con người ở dáng vẻ bên ngoài mà phải tìm hiểu thực chất bề sâu đằng sau vẻ ngoài ấy.
III. Kết bài
Khái quát lại giá trị của tác phẩm, cũng như ý nghĩa của sự đối lập giữa vẻ đẹp của chiếc thuyền và cảnh bạo lực của gia đình hàng chài.
-
1. Mở bài
- Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn đậm tính triết luận thể hiện được sự suy tư, trăn trở của nhà văn Nguyễn Minh Châu về cuộc sống đói nghèo của hiện tại.
- Thành công của truyện ngắn được tạo nên bởi chính những hình ảnh, chi tiết ấn tượng, giàu giá trị biểu đạt, trong đó nổi bật nhất có thể kể đến chi tiết “tấm ảnh nghệ thuật trong bộ lịch cuối năm”.
2. Thân bài
- Chi tiết “tấm ảnh nghệ thuật trong bộ lịch cuối năm” là chi tiết khép lại truyện ngắn, đồng thời cũng là một trong những chi tiết đắt giá nhất thể hiện được quan niệm về cuộc sống và nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu.
- Bức ảnh nghệ thuật được nhiếp ảnh gia Phùng chụp ở bãi biển năm nào đã trở nên nổi tiếng, trở thành tác phẩm nghệ thuật lí tưởng cho những nhà sành nghệ thuật.
=> Đó là bức ảnh hoàn mỹ, là kết tinh của vẻ đẹp toàn bích của thiên nhiên, tài năng và sự may mắn của người nghệ sĩ.
- Khi nhìn vào bức ảnh, Phùng không còn hạnh phúc như khi bắt gặp được khoảnh khắc trời cho ấy nữa mà đầy những trăn trở, suy tư bởi anh là người hiểu hơn ai hết sự thật tàn khốc đằng sau một khung cảnh toàn bích, hoàn hảo.
- Trong cảm nhận của Phùng, bức tranh không còn chất thơ mộng, lãng mạn nghệ thuật nữa mà thấm đượm hơi thở của cuộc đời.
=> Chính những cảm nhận này đã mang đến những ám thị đặc biệt cho Phùng mỗi lần nhìn lại bức ảnh mình từng chụp.
- Chỉ Phùng mới có cái nhìn khác về tác phẩm nghệ thuật của mình phải chăng Phùng đã từng chứng kiến câu chuyện đầy éo le, nghịch lí bên trong hay Phùng đã biết nhìn bằng trải nghiệm, dám nhìn sâu vào hiện thực dẫu tàn khốc, vô tình.
- Thông qua tình huống truyện đặc sắc, tác giả Nguyễn Minh Châu đã thể hiện được những quan niệm sâu sắc về cuộc đời và nghệ thuật, giữa người nghệ sĩ với con người.
=> Nghệ thuật chỉ là nghệ thuật chân chính nếu như phản chiếu được hiện thực cuộc sống của con người.
3. Kết bài
Khẳng định giá trị của chi tiết: Chi tiết “tấm ảnh nghệ thuật trong bộ lịch cuối năm”, nhà văn Nguyễn Minh Châu không chỉ khép lại, đặt dấu chấm cho một câu chuyện mà còn tổng kết được những giá trị tư tưởng, gợi mở ra những suy tư, chiêm nghiệm nơi độc giả.
-
I. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Minh Châu và tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa. Dẫn dắt để giới thiệu nhân vật Phùng.
II. Thân bài
1. Phùng là một người nghệ sĩ nhạy cảm với cái đẹp
- Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, trưởng phòng đã đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi chụp thực tế bổ sung một bức ảnh cảnh biển buổi sáng có sương mù. Phùng đã đi đến một vùng biển cách Hà Nội hơn sáu trăm cây số.
- Sau nhiều ngày phục kích, anh đã bắt gặp một cảnh trời cho đắt giá: “… Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào?”.
- Tâm trạng của Phùng: bối rối trước cái đẹp: “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”, nhận ra rằng “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”. Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, anh nhận ra vai trò thực sự của nghệ thuật.
=> Phùng đã để lại ấn tượng sâu sắc về hình ảnh một người nghệ sĩ chân chính, với những phát hiện sâu sắc về nghệ thuật.
2. Phùng là một con người giàu lòng vị tha, yêu thương
- Phùng chứng kiến cảnh lão đàn ông vũ phu trên chiếc thuyền chài đánh vợ một cách tàn bạo. Tâm trạng của Phùng khi ấy “kinh ngạc”, “há mồm ra mà nhìn” và anh đã “vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”. Phản xạ của anh trước sự kiện trên là phản xạ tự nhiên của con người có bản chất tốt đẹp, căm ghét sự bất công, cái độc ác xấu xa.
- Sau khi nghe thấy người đàn bà cầu xin Đẩu đừng bắt mình bỏ chồng, Phùng cảm thấy ngột ngạt “Sau câu nói của người đàn bà, tôi cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá…”.
- Anh cảm thấy bất bình cho người phụ nữ khổ sở phải chịu đựng những trận đánh từ người chồng vũ phu. Nhưng sau khi nghe toàn bộ câu chuyện của người đàn bà, anh đã có sự thay đổi về nhận thức. Đặc biệt là với người nghệ sĩ không thể đơn giản và dễ dãi khi nhìn nhận mọi vấn đề trong cuộc sống và nhìn nhận con người.
=> Không chỉ vậy, nhân vật còn hiện lên với ấn tượng của một con người giàu tình yêu thương.
III. Kết bài
Cảm nhận chung về nhân vật Phùng trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.
-
I. Mở bài
Giới thiệu về Nguyễn Minh Châu, tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa: Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu thuộc giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những truyện ngắn xuất sắc của ông, thể hiện nhiều quan niệm sâu sắc về con người và nghệ thuật. Nổi bật trong truyện là hình ảnh người đàn bà hàng chài đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
II. Thân bài
1. Tên tuổi, ngoại hình
- Tên tuổi: Không tên không tuổi, chỉ được gợi là người đàn bà hàng chài hoặc người đàn bà.
- Ngoại hình: trạc ngoài bốn mươi, thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng…
=> Sự lam lũ, vất vả của người phụ nữ.
2. Tính cách, phẩm chất
- Hiền lành, nhút nhát: Người đàn bà chỉ quen sống giữa mặt nước vừa đặt chân vào trong phòng đầy bàn ghế và giấy má liền tìm đến một góc tường để ngồi”, Khi chánh án Đẩu đề nghị chị nên ly hôn, chị ta van xin “con lạy quý tòa … đừng bắt con bỏ nó”.
- Từng trải, thấu hiểu lẽ đời: “Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu phải là người làm ăn…”, hiểu được nỗi khổ của chồng “người đàn ông bản chất vốn không phải kẻ vũ phu, độc ác, anh ta chỉ là nạn nhân của cuộc sống đói khổ. Người chồng là chỗ dựa khi có biển động…”, “Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông…”
- Giàu đức hy sinh: Nhận mọi lỗi lầm về mình “Giá tôi đẻ ít đi…”, hy sinh vì con cái “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được!”
- Một người phụ nữ giàu tình yêu thương: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng nó được ăn no”, yêu thương thằng bé Phác nhất “. Trong cái đám con cái đông đúc đang sống ở dưới thuyền, mụ không yêu một đứa nào bằng thằng Phác”...
III. Kết bài
Đánh giá về tác phẩm cũng như nhân vật người đàn bà hàng chài: Chiếc thuyền ngoài xa mang một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người. Đồng thời, Nguyễn Minh Châu cũng khắc họa hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc.
-
I. Mở bài:
Giới thiệu tác giả tác phẩm.
II. Thân bài:
1. Tình huống truyện và phát hiện của nhiếp ảnh gia Phùng:
- Sau nhiều ngày phục kích nơi bãi biển cuối cùng Phùng cũng bắt được khoảnh khắc đáng nhớ nhất trong đời cầm máy: đó là một cảnh “đắt” trời cho.- Phùng tưởng mình đã khám phá thấy “chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”, và “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”.
- Nhưng ngay sau đó cảnh đẹp thật toàn bích và “đạo đức” ấy vậy mà lại biến thành cảnh bạo lực gia đình đầy tàn nhẫn, cùng với sự khốn khổ của những con người miền biển đang dần hiện ra.
=> Phát hiện nghịch lý: Đằng sau những cái đẹp hoàn mỹ nhất cũng lại ẩn chứa những hiện thực tối tăm và xù xì, chúng chỉ cách nhau một bức màn rất mong manh, chứ không hề giản đơn, toàn bích và đầy đạo đức như Phùng vẫn hằng nghĩ.
2. Nhân vật người đàn bà làng chài:
* Hoàn cảnh số phận:
- Không có một cái tên cụ thể.
- Thô kệch, xấu xí, thêm việc lúc nhỏ bị trúng một cơn đậu mùa, khiến khuôn mặt chị chằng chịt những nốt rỗ, từng phải chịu cảnh ế chồng.
- Sau khi lấy chồng thì lại tiếp tục bước vào cuộc sống nghèo đói, lắm lo toan.
- Sinh nhiều con, chồng cục súc vũ phu, đánh đập hành hạ chị liên tục.
- Sống trong mặc cảm, sợ các con phải chứng kiến cảnh gia đình không hạnh phúc.
* Những nghịch lý xung quanh cuộc đời người đàn bà làng chài vả vẻ đẹp tâm hồn của chị:
- Kiên quyết không chịu ly hôn chồng.
- Có một tấm lòng bao dung và thông cảm vô cùng sâu sắc, trước nghịch cảnh chị vẫn sẵn sàng ôm hết phần lỗi về mình “giá mà tôi đẻ ít đi”. Đồng thời luôn nhớ tới ơn nghĩa của người chồng đối với mình.
- Tấm lòng yêu thương con sâu sắc của người mẹ:
- Chị cần “một người đàn ông chèo chống lúc phong ba” để cùng nuôi con.
- Đối với chị “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ” cho nên họ “phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”.
- Được nhìn thấy các con ăn ngon, gia đình quây quần “hòa thuận vui vẻ” là chị cũng đã cảm thấy mãn nguyện lắm rồi.+ Không muốn ly hôn chồng, ấy là chị muốn cho các con của mình một gia đình đầy đủ, để chúng được sống trong vòng tay của cả cha lẫn mẹ.- Có sự thấu hiểu lý lẽ, sự từng trải của một cuộc đời lắm gian lao, mở lòng nói cho Phùng và Đẩu những lý do chị không thể bỏ chồng, mở ra cách nhìn mới về những nghịch lý trong cuộc đời.
3 Nhận thức mới của Phùng và Đẩu:
- Trong xã hội còn nhiều tối tăm và nghèo đói này, đôi lúc chỉ lòng tốt và pháp luật không thôi thì cũng chưa đủ để giải phóng cho số phận những con người khốn khổ, bất đắc dĩ, mà họ cần nhiều hơn thế nữa.
- Không thể chỉ nhìn nhận sự việc một cách phiến diện, nhất thời, mà còn cần lắng nghe, cần nhìn sâu vào trong những cái tưởng chừng như nghịch lý nhưng lại chính là cái có lý.
III. Kết bài:
Nêu cảm nhận chung
-
I. Mở bài
- Nguyễn Minh Châu là một trong số “những nhà văn mở đường tài hoa và tinh anh nhất”. Ông không ngừng trăn trở về số phận nhân dân và trách nhiệm của nhà văn, luôn thiết tha truy tìm những hạt ngọc ẩn giấu nơi bề sâu tâm hồn.
- Chiếc thuyền ngoài xa in trong tập Bến quê, tác phẩm đem đến cái nhìn đúng đắn về cuộc sống và con người.
II. Thân bài
1. Hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh
a. Phát hiện “cảnh đắt trời cho”
- Phùng là người say mê nghệ thuật trong một thoáng nhìn anh đã phát hiện ra cảnh đắt trời cho để chớp lấy,
- Nhận xét “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một vẻ đẹp đơn giản và toàn bích. Đây là cảnh tượng kì diệu của thiên nhiên, cuộc sống khi nhìn từ xa.
- Phùng bối rối trước cái đẹp: “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”, nhận ra rằng “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”. Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, anh nhận ra vai trò thực sự của nghệ thuật.
b. Phát hiện bức tranh cuộc sống đầy nghịch lí
- Từ chiếc thuyền nhỏ đẹp đẽ vừa rồi, Phùng nhận thấy:
- Người đàn bà thô kệch xấu xí, mặt đầy sự mệt mỏi bước ra và một lão chồng với tấm lưng rộng, mái tóc tổ quạ, đôi mắt độc dữ cùng bước ra từ con thuyền.
- Lão chồng “dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”, “vừa đánh vừa nguyển rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn”.
- Trong khi ấy, ngừi đàn bà chỉ cam chịu, không kêu van, hay chống trả, chạy trốn.
- Thái độ của Phùng: “kinh ngạc đến mức trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn”. Phùng ngỡ ngàng nhận ra bản chất thực sự của cái đẹp anh vừa bắt được.
- Nhận xét: đừng nhầm lẫn giữa hiện tượng bên ngoài và bản chất bên trong
2. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở toàn án huyện
- Khi chánh án Đẩu đề nghị chị nên li hôn, chị ta van xin “con lạy quý tòa ...đừng bắt con bỏ nó”, theo chị:
- Người đàn ông bản chất vốn không phải kẻ vũ phu, độc ác, anh ta chỉ là nạn nhân của cuộc sống đói khổ. Người chồng là chỗ dựa khi có biển động.
- Chị không thể một mình nuôi nấng trên dưới 10 đứa con, vả lại “trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái vui vẻ, hòa thuận”.
- Qua câu chuyện và thái độ của người đàn bà, có thể nhận thấy người đàn bà là hiện thân cho kiếp người bất hạnh bị cái đói khổ, cái ác và số phận đen đủi dồn đến chân tường. Nhưng ở chị ta lại có một tâm hồn vị tha, tình yêu thương tha thiết và là người từng trải, sâu sắc.
- Thái độ của chánh án Đẩu và nhiếp ảnh Phùng khi người đàn bà quyết không bỏ chồng:
- Cả hai đều thấy giận dữ và bất bình
- Nhưng sau khi nghe tâm sự của người đàn bà anh ta thấy như có “một cái gì vừa mới vỡ ra”.
- Nhận xét: Ban đầu, họ quen nhìn đời bằng con mắt đơn giản một chiều (nghĩ đơn giản rằng những kẻ đi theo ngụy là xấu “lão ta hồi 75 có đi ính ngụy không?”), chỉ biết qua lí thuyết sách vở, không sẵn sàng đối mặt với nghịch lí cuộc đời.
- Bài học rút ra: phải có cái nhìn đa diện về cuộc sống, không nhìn hiện tượng đánh giá bản chất.
3. Tấm ảnh được chọn
- Nghệ sĩ Phùng vẫn mang tấm ảnh đó về tòa soạn, quả nhiên tâm ảnh đã được chọn, được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật:
- Phùng vẫn luôn nhận thấy trong bức ảnh của mình:
- “cái màu hồng hồng của sương mai” (biểu tượng cho nghệ thuật) và người đàn bà nghèo khổ bước ra từ bức tranh (hiện thân cho đời thực).
- Nhận xét: nghệ thuật chân chính không bao giờ tách rời khỏi cuộc sống.
III. Kết bài
- Nêu cảm nhận riêng về tác phẩm.
- Giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện đặc sắc, cốt truyện hấp dẫn. Khắc họa nhân vật sắc sảo, điểm nhìn trần thuật linh hoạt, ...
- Tác phẩm đã đem đến bài học về cách nhìn cuộc sống và con người: phải nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện bản chất đằng sau vẻ bề ngoài của hiện tượng.