Top 6 Dàn ý phân tích "Bài ca ngất ngưởng" của Nguyễn Công Trứ hay nhất
Phân tích "Bài ca ngất ngưởng" của Nguyễn Công Trứ giúp người đọc hình dung về Nguyễn Công Trứ với một phong cách sống, một lối sống đầy cá tính và bản lĩnh. ... xem thêm...Đồng thời, để lại trong mỗi người nhiều suy ngẫm, nhiều bài học quý giá. Tuy nhiên, để hiểu và làm văn hay, việc trước tiên các bạn cần phải lập dàn ý. Dàn ý càng chi tiết thì việc làm văn càng dễ dàng. Mời các bạn tham khảo một số dàn ý phân tích “Bài ca ngất ngưởng” sau đây:
-
I. Mở bài
- Giới thiệu những nét khái quát về tác giả Nguyễn Công Trứ (đặc điểm con người, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác,...)
- Giới thiệu những nét khái quát về bài thơ "Bài ca ngất ngưởng" (hoàn cảnh ra đời, cảm hứng chủ đạo, khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ,...)
- Giới thiệu khái quát bài học được rút ra từ tác phẩm.
II. Thân bài
a. Phân tích bài thơ "Bài ca ngất ngưởng"
* Cảm hứng chủ đạo của bài thơ - "ngất ngưởng"
- Xuất hiện 4 lần trong toàn bộ tác phẩm
- Là một từ láy giàu ý nghĩa:
- Xét về nghĩa đen: tả độ cao ở trạng thái không vững, chực đổ nhưng không đổ.
- Trong bài thơ, là lối sống, là thái độ sống của Nguyễn Công Trứ.
* "Ngất ngưởng" khi ở chốn làm quan
- Câu thơ chữ Hán mở đầu đã khẳng định mạnh mẽ lí tưởng nam nhi mà tác giả tự nguyện hướng theo, đây chính là lí tưởng chung của những người đi theo con đường Nho học: trong vòng trời đất không có việc gì là không phải việc của mình.
- Bằng việc sử dụng hàng loạt từ ngữ Hán Việt cùng biện pháp liệt kê, Nguyễn Công Trứ đã khéo léo điểm lại hàng loạt các chức quan, danh vị mà mình đã từng đảm nhiệm, điều đó cho thấy ông là người văn võ song toàn.
Việc khoe tài năng, danh vị ấy của Nguyễn Công Trứ không phải là tự cao, tự đại, khoe khoang hợm hĩnh mà nó dựa trên tài năng và sự nghiệp của chính bản thân ông, là cái vỏ bên ngoài để giấu sâu bên trong là một cái tôi ý thức rõ về tài năng, danh vị của bản thân mình.
* "Ngất ngưởng" khi đã cáo quan về hưu
- Lối sống khác đời, khác người và có phần trái khoáy:
- Con bò vàng đã được nhà thơ "trang sức" cho nó bằng đạc ngựa.
- Vãn cảnh chùa còn mang theo một cô gái đẹp đến nước bụt cũng phải chào thua.
- Có quan niệm sống rõ ràng, không quan tâm đến chuyện được - mất, khen - chê: Với ông, giữa được và mất, khen và chê không biết cái nào hơn cái nào.
- Ông đã lựa chọn cho mình một lối sống tự do, được thỏa chí làm những việc mình muốn: Coi trọng hiện tại, hiện thế và biết thưởng thức những thú vui có trong cuộc đời như thú hát cô đầu, thú uống rượu và đặc biệt là ái tình.
Thái độ sống, phong cách sống của Nguyễn Công Trứ đã vượt ra ngoài vòng cương tỏa nhưng ông vẫn luôn là một bề tôi hết mực trung thành.
b. Những bài học rút ra cho bản thân từ bài thơ "Bài ca ngất ngưởng"
- Cần ý thức được vai trò, vị trí của bản thân trong cuộc sống và ý thức rõ ràng về tài năng của chính mình
- Có một quan niệm sống, lí tưởng sống đúng đắn, phải biết vượt ra khỏi cuộc sống tù túng, tẻ nhạt để sống một cuộc sống giàu ý nghĩa.
- Không được sống nhỏ nhen, ích kỉ, chỉ biết quan tâm đến chuyện được, mất, khen, chê của mình mà quên đi những người xung quanh.
III. Kết bài
Khái quát những nét đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của bài thơ, bài học rút ra cho bản thân và nêu cảm nghĩ của bản thân.
-
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Nguyễn Công Trứ là một nhân vật lịch sử nổi tiếng in đậm dấu ấn không chỉ trong văn chương mà còn trong nhiều lĩnh vực khác, thơ văn ông phản ánh nhân sinh và thế sự sâu sắc.
- Bài ca ngất ngưởng là một trong số những bài hát nói tiêu biểu thể hiện tài năng, chí khí và ý thức cá nhân của Nguyễn Công Trứ.
II. Thân bài
* Cảm hứng chủ đạo
- “ngất ngưởng”: thế cao chênh vênh, không vững, nghiêng ngả.
=> Tư thế, thái độ cách sống ngang tàng, vượt thế tục của con người.
=> Phong cách sống nhất quán của Nguyễn Công Trứ, tác giả có ý thức rất rõ về tài năng và bản lĩnh của mình, kể cả khi làm quan, ra vào nơi triều đình và khi đã nghỉ hưu.
* Luận điểm 1: Quan điểm sống ngất ngưởng trên con đường công danh, sự nghiệp (6 câu đầu)
- “Vũ trụ nội mạc phi phận sự”: thái độ tự tin khẳng định mọi việc trong trời đất đều là phận sự của tác giả -> Tuyên ngôn về chí làm trai của nhà thơ.
- “Ông Hi Văn… vào lồng”: Coi nhập thế là việc làm trói buộc nhưng đó cũng là điều kiện để bộc lộ tài năng
- Nêu những việc mình đã làm ở chốn quan trường và tài năng của mình:
- Tài năng: giỏi văn chương (khi thủ khoa), tài dùng binh (thao lược)
- Tài năng lỗi lạc xuất chúng: văn võ song toàn
- Khoe danh vị, xã hội hơn người: Tham tán, Tổng đốc, Đại tướng (bình định Trấn Tây), Phủ doãn Thừa Thiên
Tự hào mình là một người tài năng lỗi lạc, danh vị vẻ vang văn vẻ toàn tài.
Sáu câu thơ đầu là lời từ thuật của nhà thơ lúc làm quan, khẳng định tài năng và lí tưởng phóng khoáng khác đời ngạo nghễ của một người có khả năng xuất chúng.
* Luận điểm 2: Quan điểm sống ngất ngưởng trong lối sống, suy nghĩ (10 câu tiếp)
- Cách sống theo ý chí và sở thích cá nhân:
- Cưỡi bò đeo đạc ngựa.
- Đi chùa có gót tiên theo sau.
=> Sở thích kì lạ, khác thường, thậm chí có phần bất cần và ngất ngưởng
- Bụt cũng nực cười: thể hiện hành động của tác giả là những hành động khác thường, ngược đời, đối nghịch với quan điểm của các nhà nho phong kiến.
=> Cá tính người nghệ sĩ mong muốn sống theo cách riêng.
- Quan niệm sống:
- “Được mất... ngọn đông phong”: Tự tin đặt mình sánh với “thái thượng”, tức sống ung dung tự tại, không quan tâm đến chuyện khen chê được mất của thế gian
- “Khi ca… khi tùng”: tạo cảm giác cuộc sống phong phú, thú vị, từ “khi” lặp đi lặp lại tạo cảm giác vui vẻ triền miên.
- “Không… tục”: không phải là Phật, không phải là tiên, không vướng tục, sống thoát tục -> sống không giống ai, sống ngất ngưởng.
=> Quan niệm sống kì lạ khác thường mang đậm dấu ấn riêng của tác giả.
* Luận điểm 3: Lời khẳng định về sự ngất ngưởng vô địch (3 câu cuối)
- “Chẳng trái Nhạc... Nghĩa vua tôi cho trọn đạo sơ chung”: Sử dụng điển cố, ví mình sánh ngang với những người nổi tiếng có sự nghiệp hiển hách như Trái Tuân, Hàn Kì, Phú Bật…
- Khẳng định bản lĩnh, khẳng định tài năng sánh ngang bậc danh tướng. Tự khẳng định mình là bề tôi trung thành.
- “Trong triều ai ngất ngưởng như ông” : vừa hỏi vừa khẳng định vị trí đầu triều về cách sống “ngất ngưởng”
- Tuyên ngôn khẳng định cá tính, sự mong muốn vượt ngoài quan điểm đạo đức Nho gia thông thường. Đối với ông, ngất ngưởng phải có thực danh và thực tài.
* Đặc sắc nghệ thuật:
- Vận dụng thành công thể hát
- Giọng điệu thơ hóm hỉnh, trào phúng
- Sử dụng điển tích, điển cố
III. Kết bài
- Khẳng định những nét tiêu biểu nhất về nội dung và nghệ thuật của Bài ca ngất ngưởng
- Trình bày suy nghĩ của bản thân về bài thơ.
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
-
I. Mở bài
- Đôi nét về tác giả Nguyễn Công Trứ: một nhân vật lịch sử nổi tiếng in đậm dấu ấn không chỉ trong văn chương mà còn trong nhiều lĩnh vực khác, thơ văn ông phản ánh nhân sinh và thế sự sâu sắc
- Bài ca ngất ngưởng là một trong số những bài hát nói tiêu biểu thể hiện tài năng, chí khí và ý thức cá nhân của Nguyễn Công Trứ.
II. Thân bài
a. Cảm hứng chủ đạo
- “ngất ngưởng” : thế cao chênh vênh, không vững, nghiêng ngã.
- Tư thế, thái độ cách sống ngang tàng, vượt thế tục của con người.
- Phong cách sống nhất quán của Nguyễn Công Trứ, Tác giả có ý thức rất rõ về tài năng và bản lĩnh của mình, kể cả khi làm quan, ra vào nơi triều đình và khi đã nghỉ hưu.
b. 6 câu đầu
- “Vũ trụ nội mạc phi phận sự”: thái độ tự tin khẳng định mọi việc trong trời đất đều là phận sự của tác giả ⇒ Tuyên ngôn về chí làm trai của nhà thơ.
- “Ông Hi Văn…vào lồng”: Coi nhập thế là việc làm trói buộc nhưng đó cũng là điều kiện để bộc lộ tài năng
- Nêu những việc mình đã làm ở chốn quan trường và tài năng của mình:
- Tài năng: Giỏi văn chương (khi thủ khoa), Tài dùng binh (thao lược)
- Tài năng lỗi lạc xuất chúng: văn võ song toàn
- Khoe danh vị, xã hội hơn người: Tham tán, Tổng đốc, Đại tướng (bình định Trấn Tây), Phủ doãn Thừa Thiên
- Tự hào mình là một người tài năng lỗi lạc, danh vị vẻ vang văn vẻ toàn tài.
- 6 câu thơ đầu là lời từ thuật của nhà thơ lúc làm quan, khẳng định tài năng và lí tưởng phóng khoáng khác đời ngạo nghễ của một người có khả năng xuất chúng
c. 10 câu tiếp
- Cách sống theo ý chí và sở thích cá nhân:
- Cưỡi bò đeo đạc ngựa.
- Đi chùa có gót tiên theo sau.
Sở thích kì lạ, khác thường, thậm chí có phần bất cần và ngất ngưởng
- Bụt cũng nực cười: thể hiện hành động của tác giả là những hành động khác thường, ngược đời, đối nghịch với quan điểm của các nhà nho phong kiến.
Quan niệm sống:
- “Được mất ... ngọn đông phong”: Tự tin đặt mình sánh với “thái thượng”, tức sống ung dung tự tại, không quan tâm đến chuyện khen chê được mất của thế gian
- “Khi ca… khi tùng” : tạo cảm giác cuộc sống phong phú, thú vị, từ “khi” lặp đi lặp lại tạo cảm giác vui vẻ triền miên .
- “Không …tục”: không phải là Phật, không phải là tiên, không vướng tục , sống thoát tục ⇒ sống không giống ai, sống ngất ngưởng
⇒ Quan niệm sống kì lạ khác thường mang đậm dấu ấn riêng của tác giả.
d. 3 câu cuối
- “Chẳng trái Nhạc.. Nghĩa vua tôi cho trọn đạo sơ chung”: Sử dụng điển cố , ví mình sánh ngang với những người nổi tiếng có sự nghiệp hiển hách như Trái Tuân, Hàn Kì, Phú Bật…
⇒ Khẳng định bản lĩnh, khẳng định tài năng sánh ngang bậc danh tướng. Tự khẳng định mình là bề tôi trung thành.
- “Trong triều ai ngất ngưởng như ông”: vừa hỏi vừa khẳng định vị trí đầu triều về cách sống “ngất ngưởng”
⇒ Tuyên ngôn khẳng định cá tính, sự mong muốn vượt ngoài quan điểm đạo đức Nho gia thông thường. Đối với ông, ngất ngưởng phải có thực danh và thực tài.
e. Đặc sắc nghệ thuật
- Vận dụng thành công thể hát
- Giọng điệu thơ hóm hỉnh, trào phúng
- Sử dụng điển tích, điển cố
III. Kết bài
- Khẳng định những nét tiêu biểu nhất về nội dung và nghệ thuật của Bài ca ngất ngưởng
- Liên hệ trình bày suy nghĩ bản thân
-
I. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Công Trứ
- Giới thiệu bài “Bài ca ngất ngưởng”
II. Thân bài
1. Khái quát chung
Giới thiệu về hoàn cảnh sáng tác và nội dung chính bài “Bài ca ngất ngưởng”
2. Phân tích
a. Phân tích nhan đề bài thơ
“Ngất ngưởng” xuất hiện bốn lần và thường ở những vị trí then chốt của câu giống như điệp khúc của bài ca. Từ “ngất ngưởng” có lẽ đã làm nổi bật tư tưởng, chủ đề của tác phẩm: là bài ca về sự ngất ngưởng”.
b. Phân tích sáu câu đầu
- Câu thơ mở đầu “Vũ trụ nội mạc phi phận sự”: tạo giọng điệu ngang tàng, trang trọng, phù hợp với lý tưởng trang nam nhi, đó là trách nhiệm, sự tự tin vào khả năng của chính bản thân mình. Như vậy, ngay từ câu thơ mở đầu thì ý thức cá nhân đã được khẳng định.
- Câu thơ thứ hai “Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”: gây sự chú ý khi đã xưng tên mình trong thơ, không những thế còn tôn cao mình là “tài bộ”. Đặt trong nền văn học trung đại vốn được coi là phi ngã thì đây là cách nói độc đáo, thể hiện ý thức về cái tôi của nhà Nho. Điều này chỉ thấy xuất hiện ở văn học cuối thế kỉ XVIII- đầu thế kỉ XIX- khi trào lưu nhân đạo xuất hiện.
- Vào lồng: nói chuyện ra làm quan bị giam hãm, mất tự do
- Điệp từ “khi” tạo nhịp điệu dồn dập, thể hiện thái độ hào hứng của tác giả khi ngẫm lại quãng thời gian làm quan.
- Với sáu câu đầu, “ngất ngưởng” chính là phong thái của một con người có tài năng và ý thức vê tài năng của bản thân mình.
c. Những câu còn lại
- Lối sống:
“Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa vàng đeo ngất ngưởng
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”
- Hình ảnh Nguyễn Công Trứ ngất ngưởng trên lưng bò cái như muốn giỡn mặt với cả thiên hạ: con người đã từng bôn ba, dẹp loạn với tài thao lược giờ đây cũng lên chùa với dáng từ bi nhưng không phải là giống với các Phật tử đương thời bởi ông lên chùa mà còn đưa theo cô hầu gái. Đây không phải là biểu hiện lối sống lập dị, khác người mà đó là ý thức thế tục, chế giễu lối sống xáo mòn, rập khuôn của đám hủ nho. Thế tục mà ông chán ghét. Đôi khi trong cuộc sống, Nguyễn Công Trứ không tránh khỏi những giây phút riêng tư, trầm lắng, cả những cảm nhận hư vô về cuộc đời, cái nhìn ấy gửi trọn vào đám mây trắng trên đỉnh non cao.
- Quan niệm sống: Hai câu thơ tiếp đã gửi gắm quan niệm sống, với Nguyễn Công Trứ, chuyện “được”, “mất”, “khen”, “chê” nên phóng tâm coi nhẹ, coi trọng hiện tại, vượt lên tiêu chuẩn đạo đức lỗi thời. Hình ảnh một ông ngất ngưởng với thía độ an nhiên tự tại trước được mất của cuộc đời là hình ảnh nổi bật trong câu thơ. Nguyễn Công Trứ cũng không nhận mình là Phật, Tiên nhưng cũng không vướng tục, đủ tự tin để nhận mình là người tài giỏi, chẳng kém gì Nhạc Phi, Hàn Kì. Sau đó vẫn tâm niệm: Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ trung. Với đoạn hai, có thể thấy ngất ngưởng ở đây là con người với lối sống tự do, phóng khoáng và con người có lối sống an nhiên, tự tại luôn coi trong đạo đức.
d. Đánh giá
- Đây là bài ca về phong cách sống của chính nhà nho, con người có tài năng, nhân cách, bản lĩnh cá nhân.
- Nghệ thuật: Thể hát nói với lối viết tương đối tự do phù hợp với việc thể hiện con người cá nhân.
III. Kết bài
Khẳng định lại thành công của Nguyễn Công Trứ và vị trí của bài thơ.
-
I. Mở bài
- Giới thiệu sơ lược về tác giả:
- Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858), là một người ham học từ nhỏ nhưng con đường thi cử không được hanh thông, mãi đến năm bốn mươi tuổi ông mới đỗ đạt và làm quan.
- Giới thiệu sơ lược về Bài ca ngất ngưởng: Đây là bài thơ được tác giả viết sau năm 1848, năm ông cáo quan về hưu.
II. Thân bài
* Ngất ngưởng trên hành trình hoạn lộ
- Đề cao vai trò và ý thức trách nhiệm, bổn phận cá nhân “vũ trụ nội mạc phi phận sự”.
- “Ông Hi Văn”: thái độ tự trào, tự tôn độc đáo.
- Tự ý thức được ra làm quan là sẽ mất tự do (vào lồng) nhưng đây là phương tiện để ông thể hiện tài năng và hoài bão được cống hiến sức mình phục vụ nhân dân.
- Nghệ thuật: điệp từ “khi” kết hợp với thủ pháp kiệt kê nhằm nêu khẳng định tài thao lược, văn chương của tác giả.
- “Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông”, “Lúc bình Tây”, “Phủ doãn Thừa Thiên” ⇒ sự thay đổi chức vụ liên tục, không chịu ở yên một vị trí nhất định.
⇒ Ngất ngưởng là lời tự khẳng định, sự đánh giá cao tài năng, nhân cách và phong cách tài tử, phóng túng.
* Ngất ngưởng khi về hưu
- Tự hào khi đã trả xong món nợ với nhân dân để về quê “giả tổ chi niên”.
- Thái độ của Nguyễn Công Trứ khi về hưu:
- Cưỡi bò vàng có đeo đạc rời khỏi kinh đô ⇒ ngạo nghễ, trêu ngươi, coi thường dư luận, đạt đến độ cao của phẩm cách và tài trí.
- Từ một “tay kiếm cung” nay trở về với dáng dấp của một nhà tu hành “dạng từ bi”.
- Tâm trạng từ sự thanh thản, nhẹ nhỏm thành sự ngậm ngùi.
- Lối ống khi về hưu
- Lên chùa cùng đào hát ⇒ khác người, khác đời.
- Hưởng lạc: ca, tửu, cắc, tùng.
- Coi thường được mất và sự khen chê của miệng đời.
⇒Thái độ thanh lạc, thỏa thích, phóng túng, tự do, coi nhẹ được mất, hơn thua ở đời.
⇒ Cuộc sống tự do, tự tại vượt lên mọi thói tục của một bậc phong lưu, không ngại khẳng định cá tính của mình.
*Khẳng định cá tính của bản thân
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung,
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
- Đặt mình ngang hàng với các bậc công thần, danh tướng Trung Hoa thời xưa ⇒ tự hào về sự nghiệp cống hiến cho đất nước.
- Nghĩa vua - tôi ⇒ khẳng định tấm lòng trung quân, ái quốc, một lòng vì nước vì dân.
⇒ Tự hào, sảng khoái, tự tin thể hiện cái tôi cá nhân
III. Kết bài
- Nội dung: Trên cơ sở ý thức về tài năng và nhân cách của bản thân, bài thơ còn là sự tổng kết về cuộc đời của chính tác giả.
- Nghệ thuật:
- Cách ngắt nhịp tạo tính nhạc cho tác phẩm, đồng thời thể hiện phong thái ung dung.
- Sử dụng nhiều từ Hán Việt, điển cố thể hiện tài hoa, trí tuệ của tác giả.
- Bài hát nói mang đậm chât thơ và bộc lộ tính cách phóng khoáng, tự do, bản lĩnh.
- Giới thiệu sơ lược về tác giả:
-
I. Mở bài
a. Giới thiệu sơ lược về tác giả
- Khái quát về thân thế, sự nghiệp của tác giả:
- Nguyễn Công Trứ là một nhà văn có tính cách "ngông", một nhân vật lịch sử nổi tiếng, nhà chính trị, nhà quân sự và nhà thơ
- Thơ văn ông có nội dung phản ánh nhân sinh và thế sự sâu sắc.
b. Khái quát về tác phẩm
- Giới thiệu hoàn cảnh lịch sử, xã hội, xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác Bài ca ngất ngưởng
- Chủ đề nội dung của Bài ca ngất ngưởng: thể hiện bản lĩnh cứng cỏi, sự thức tỉnh ý thức cá nhân và một nhân sinh quan tiến bộ hiện đại.
- Ý nghĩa nhan đề: tập trung vào hai chữ "ngất ngưởng"
- Nghĩa đen: Chỉ sự vật ở độ cao chênh vênh, không vững, nghiêng ngả
- Nghĩa bóng: Cách sống vượt lên trên những khuôn mẫu, gò bó, thể hiện tính cách, thái độ, cách sống ngang tàng của Nguyễn Công Trứ.
II. Thân bài
a. Quan điểm sống ngất ngưởng khi làm quan
- “Vũ trụ nội mạc phi phận sự”: quan niệm con người sinh ra do “ý của trời đất”, nên phải có trách nhiệm, phải gánh vác việc đời (những việc trong vũ trụ đều thuộc trong phận sự của ta).
- Quan niệm ấy trong Nguyễn Công Trứ gắn liền với ý tưởng "tu, tề, trị, bình", với chí làm trai và chủ nghĩa anh hùng mà ông đeo đuổi với tất cả lòng tin tưởng, lạc quan trong suốt cuộc đời mình.
- “Ông Hi Văn… vào lồng”:
- Hình ảnh ẩn dụ “vào lồng”: diễn tả cuộc đời làm quan, coi thường danh lợi của Nguyễn Công Trứ => Cách nhìn mới mẻ, khác lạ so với nhà Nho đương thời
- Coi nhập thế là việc làm trói buộc, làm quan sẽ mất tự do, gò bó nhưng đó cũng là điều kiện để bộc lộ tài năng, hoài bão, trọn nghĩa vua tôi.
- Nêu những việc mình đã làm ở chốn quan trường và tài năng của mình:
- Tài năng: giỏi văn chương (khi thủ khoa), tài dùng binh (thao lược)
- Tài năng lỗi lạc, xuất chúng, văn võ song toàn.
- Khoe danh vị, xã hội hơn người: Tham tán, Tổng đốc, Đại tướng (bình định Trấn Tây), Phủ doãn Thừa Thiên
Tự hào mình là một người tài năng lỗi lạc, danh vị vẻ vang, văn võ toàn tài.
Sáu câu thơ đầu là lời tự thuật chân thành của nhà thơ lúc làm quan, khẳng định tài năng và lí tưởng trung quân, lòng tự hào về phẩm chất, năng lực và thái độ sống tài từ, phóng khoáng, khác đời, ngạo nghễ của một người có khả năng xuất chúng hay thái độ sống của người quân tử bản lĩnh, kiên trì lí tưởng.
b. Quan niệm sống ngất ngưởng khi về hưu
- Cách sống theo ý chí và sở thích cá nhân:
- Cưỡi bò đeo đạc ngựa.
- Đi chùa có gót tiên theo sau.
=> Sở thích kì lạ, khác thường, thậm chí có phần bất cần và ngất ngưởng.
- "Bụt cũng nực cười": thể hiện hành động của tác giả là những hành động khác thường, ngược đời, đối nghịch với quan điểm của các nhà nho phong kiến.
=> Cá tính người nghệ sĩ mong muốn sống theo cách riêng.
- Quan niệm sống:
- “Được mất... ngọn đông phong”: Tự tin đặt mình sánh với “thái thượng”, tức sống ung dung tự tại, không quan tâm đến chuyện khen chê được mất của thế gian.
- “Khi ca… khi tùng”: tạo cảm giác cuộc sống phong phú, thú vị, từ “khi” lặp đi lặp lại tạo cảm giác vui vẻ triền miên.
- “Không… tục”: không phải là Phật, không phải là tiên, không vướng tục, sống thoát tục -> sống không giống ai, sống ngất ngưởng.
=> Quan niệm sống kì lạ khác thường mang đậm dấu ấn riêng của tác giả.
c. Quãng đời khi cáo quan về hưu
- “Chẳng trái Nhạc... Nghĩa vua tôi cho trọn đạo sơ chung”: dùng điển cố ví mình sánh ngang với những người nổi tiếng có sự nghiệp hiển hách như Trái Tuân, Hàn Kì, Phú Bật,...
- Tự khẳng định mình là con người trung thần, làm tròn đạo vua tôi, điều này góp phần khẳng định thêm quan niệm về chí làm trai của tác giả ở đầu bài thơ.
- Tự hào khẳng định tài năng và công lao của mình một cách đĩnh đạc hào hùng.
- “Trong triều ai ngất ngưởng như ông”: vừa hỏi vừa khẳng định vị trí đầu triều về cách sống “ngất ngưởng”.
Tuyên ngôn khẳng định cá tính, sự mong muốn vượt ngoài quan điểm đạo đức Nho gia thông thường. Đối với ông, ngất ngưởng phải có thực danh và thực tài. Vậy cái ngất ngưởng của ông không phải tiêu cực mà sự khẳng định bản thân của mình, là bản lĩnh dám sống ở đời, và một phong cách sống tài hoa tài tử.
III. Kết bài
- Khái quát về giá trị nội dung và nghệ thuật
- Nội dung: thể hiện phong cách sống tốt đẹp, bản lĩnh cá nhân trong khuôn khổ của xã hội phong kiến chuyên chế, sự tự ý thức giá trị bản thân của tác giả.
- Đặc sắc nghệ thuật: Vận dụng thành công thể hát nói, giọng điệu hóm hỉnh, trào phúng; sử dụng điển tích, điển cố; kết hợp hài hòa giữa hệ thống từ ngữ Hán Việt với từ ngữ Nôm thông dụng trong đời sống hàng ngày.
- Phát biểu cảm nghĩ, ấn tượng chung của bản thân về tác phẩm.
- Rút ra bài học tư tưởng, tình cảm... đối với bản thân.
- Khái quát về thân thế, sự nghiệp của tác giả: