Top 9 Bài văn thuyết minh về tranh Đông Hồ hay nhất
"Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong/ Hồn dân tộc sáng bừng trên giấy điệp". Đây là những câu ca dao quen thuộc khi nhắc đến một trong những làng nghề thủ ... xem thêm...công mỹ nghệ nổi tiếng tại Bắc Ninh. Nơi lưu giữ không chỉ những giá trị văn hóa tinh thần hồn cốt dân tộc mà còn chứa đựng những nét đẹp tiềm ẩn của con người vùng kinh Bắc. Sau đây Toplist xin gửi tới các bạn đọc những bài văn thuyết minh về làng tranh Đông Hồ hay nhất.
-
"Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mái có lịch có lề
Có ao tắm mát có nghề làm tranh"Đó là những câu ca gợi cảm về một làng nghề truyền thống từ lâu đã được người biết đến - Làng tranh Đông Hồ. Từ bao đời nay, người dân Việt Nam đã quen cái tên Đông Hồ gần liền với nghề về tranh dân gian nổi tiếng.
Đông Hồ, một cái tên làng quen thuộc xinh xắn nằm bên bờ sông Đuống thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, Hà Bắc cũ (nay là tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội chừng trên 35 km). Từ lâu tên làng đi vào cuộc sống tinh thần của mỗi dân Việt Nam bằng những bức tranh dân gian nổi tiếng, đậm đà sắc thái dân tộc. Làng tranh Đông Hồ xưa còn gọi là làng Mái (đôi khi dân địa phương gọi là làng Hồ), là làng nghề nổi tiếng về tranh dân gian. Làng Đông Hồ nằm trên bờ nam sông Đuống, cạnh bên đò Hồ, nay là cầu Hồ. Từ Hà Nội muốn đi Đông Hồ gần nhất là xuôi theo đường Quốc lộ số 5 (đường đi Hải Phong đến ga Phú Thụy, cách Hà Nội chừng 15 km thì rẽ trái, đi chừng 18 km các địa danh khá nổi tiếng của huyện Gia Lâm (Hà Nội) như phố Sủi, chợ Keo, chợ Dâu (Thuận Thành - Bắc Ninh) là đến phố Hồ - huyện lỵ Thuận Thành. Rẽ trái thêm 2 km là đến làng Hồ. Cũng có thể đi hết phố Hồ, lên đê rẽ gặp điểm canh đê thứ hai sẽ có biển chỉ đường xuống làng Đông Hồ.
Trước đây, hầu như nhà nào cũng làm tranh, nhưng nay, số gia đình chuyên làm về tranh Đông Hồ còn lại không nhiều, điều đó càng khiến cho những gì còn lưu lại trở nên quý giá. Không ai biết chính xác nghề tranh Đông Hồ ra đời từ bao giờ, nhưng căn cứ vào các gia phả trong làng thì muộn nhất là vào đời Lê, tức là cách đây khoảng 500 năm. Còn theo lịch sử cùa làng thì gia đình đã gắn bó với nghề lâu nhất ở đây là gia đình ông Nguyễn Đăng Chế. Đến nay, gia đình ông đã có 20 đời làm nghề. Cả đại gia đình ông ba thế hệ đều tâm huyết với tranh Đông Hồ. Trung tâm giao lưu văn hóa tranh dân gian Đông Hồ do con cháu ông đóng góp xây dựng rộng 5.500 mét vuông vừa mới khánh thành thực sự tạo ra được một không gian văn hoá độc đáo. trở thành một địa chỉ không thể thiếu với các tua du lịch làng nghề cho du khách trong và ngoài nước.
Tranh Đông Hồ gồm các loại: Tranh thờ - bộ ngũ sự, tranh lịch sử: Hai Trưng, Bà Triệu..., truyện tranh: Thánh Gióng, Truyện Kiều, Thạch Sanh, phổ biến nhất là chúc tụng, ví như tranh Vinh hoa - Phú quý, Nghi xuân, Gà (xem thêm Bảy bức tranh gà), tranh sinh hoạt: Đánh Ghen, Chăn Trâu Thổi Sách. Nhà Nông, Đám cưới Chuột, Hái dừa... Tranh Đông Hổ có đặc điểm thường là những hình ảnh sung túc như đám cưới chuột, cảnh trai gái cùng nhau hái dừa, cảnh cá chép nhiều màu vẫy đuôi... thể hiện mong muốn về sự sung túc.
Theo thời gian làng tranh cũng trải qua biết bao nhiêu thăng trầm. Các cụ nghệ nhân trong làng kể lại: Hồi Pháp thuộc, người ở nhà Bác Cổ thỉnh thoảng sẽ đánh xe ô tô về mua tranh, thậm chí mua cả bàn khắc tranh nữa! Nhà cụ Lừ bản khắc tranh gà rất quý đưa đi đóng cửa chuồng gà, người Pháp phát hiện ra hỏi mua cụ bán liền. Nghĩ lại mà tiếc! Còn nhớ cái thuở Tây càn, dân làng Hồ chạy loạn, binh lửa chiến tranh liên miên và cái khí hậu ẩm ướt khắc nghiệt của thiên nhiên miền Bắc, ván khắc tranh bị hỏng và thất lạc khá nhiều. Bản gốc tranh Đánh ghen, Gà đại cát, lợn ăn lá dày... cũng không còn nữa. Sau ngày Hòa Bình lập lại thấy trên báo Pháp có in tranh dân gian làng Hồ, Chính phủ e phải liên hệ với Đảng Cộng sản Pháp xin cho khắc lại ván tranh để bảo tồn. Đã một thời gian tranh dân gian Đông Hồ bị lãng quên nên nghề làm tranh mai một ít nhiều. Không ít hộ bỏ làm tranh chuyển sang làm đồ vàng mã. Nhưng vài năm trở lại đây người Đông Hồ lại hoan hỉ trở lại với nghề tranh nhiều hơn bởi người dân của ta đã lại nhận ra vẻ đẹp trong sự mộc mạc giản dị của tranh Đông Hồ là không thế thiếu được trong cuộc sống thường nhật, nhất là ngày Tết.
Không chỉ có người Hà Nội và dân một số tỉnh thành trong nước yêu thích tranh dân gian Tết Đông Hồ vẽ tham quan tìm hiểu và chọn mua, mà không ít du khách, những người trong lĩnh vực hội họa, mỹ thuật của nước ngoài cũng đến để nghiên cứu về nghệ thuật tranh dân gian nổi tiếng của làng Hồ. Bà con Việt kiều khi về nước cùng phải tìm mua bằng được những bức tranh làng Hồ và cô Tố Nữ dáng quê hương, để khi ở xa quê trong sương mù Luân Đôn hay cái giá lạnh của Pa-ri hoa lệ, cảm thấy ấm lòng ở chốn tha hương.
-
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Hồn dân tộc sáng bừng trên giấy điệpĐây là những câu ca dao quen thuộc khi nhắc đến một trong những làng nghề thủ công mỹ nghệ nổi tiếng tại Bắc Ninh. Nơi lưu giữ không chỉ những giá trị văn hóa tinh thần hồn cốt dân tộc mà còn chứa đựng những nét đẹp tiềm ẩn của con người vùng kinh Bắc.
Nghe đến cái tên Đông Hồ là nhắc đến một ngôi làng xinh xắn nằm bên cạnh bờ sông Đuống thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, Hà Bắc cũ nay là tỉnh Bắc Ninh cách thủ đô khoảng 35km. Đây là một trong những ngôi làng nổi tiếng về những bức tranh dân gian đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.
Theo tương truyền thì ban đầu ngôi làng có tên gọi khác là làng Mái hay còn có tên gọi là làng Hồ do ngôi làng nằm bên cạnh bến đò Hồ. Nghề vẽ tranh của làng bắt nguồn từ thời nhà Lê, ở một ngôi làng nghèo mà hào hoa lịch lãm như vậy vẫn còn tương truyền những câu ca “ làng Mái có lịch có 26 sông tắm mát, có nghề làm tranh”. Trải qua nhiều thế kỉ với nhiều biến động của lịch sử 17 dòng họ bắt đầu quy tụ về làng, và cùng chung sức để phát triển nghề làm tranh. Cứ mỗi tháng vào cữ tháng chạp các thuyền từ xứ Đông xứ Đoài ghé về để “ăn tranh”. KHông khí náo nhiệt rộn ràng khắp nơi tiếng chày giã điệp, chỗ dỡ ván in tranh…. Ở làng Đông Hồ những người có hoa tay, có thú chơi cầm kì thi họa rất được vị nể.
Để hoàn thành một bức tranh, người làm tranh phải rất công phu, cẩn thận và thực hiện nhiều giai đoạn: sơn hồ lên giấy, phơi giấy cho khô hồ, quét điệp rồi lại phơi giấy cho khô lớp điệp, khi in tranh phải in từng màu lần lượt, nếu có 5 màu thì 5 lần in, mỗi lần in là một lần phơi… Cứ như thế, từng lớp, từng lớp dưới ánh sáng mặt trời lấp lánh các hình ảnh, đường nét của cảnh sắc thiên nhiên, nếp sinh hoạt của người dân cứ hiện ra làm say đắm lòng người.
Tranh Đông Hồ có nhiều chủ đề, nội dung tranh đa dạng và phong phú nhưng được chia thành 5 loại phổ biến đó là: Tranh tâm linh, tranh lịch sử, truyện tranh, tranh chúc tụng, tranh sinh hoạt. Nhắc đến tranh Đông Hồ, có lẽ mọi người không thể không biết đến một số bức tranh tiêu biểu nổi tiếng. Bức tranh “Đám cưới chuột” ngụ ý như lời cảnh báo, nhắc nhở và răn dạy những người có chức có quyền nên sống sao cho phải đạo. Đồng thời cũng là lời nhắc nhở cho các thế hệ trẻ trong gia đình biết đối nhân xử thế. “Vinh Quy Bái Tổ” là tên của bức tranh dân gian Đông Hồ nổi tiếng, thường là phần thưởng vinh danh người đỗ đạt và cho cha mẹ họ hàng, làng xóm, thầy dạy. Bức tranh như lời nhắc nhở ý nghĩa cho thế hệ trẻ cố gắng nỗ lực học tập vươn tới thành công… Ngoài ra còn rất nhiều bức tranh mang ý nghĩa sâu sa khác nữa,… Như vậy, các bức tranh Đông Hồ đều mang những ngụ ý và những điều tốt đẹp mà ông cha muốn dăn dạy nhắc nhở thế hệ con cháu sau này. Các bức tranh Đông Hồ chính là những món quà tặng đại diện cho Việt Nam vô cùng đáng quý giá.
Tranh Đông Hồ đã từng được đem đi triển lãm nghệ thuật trên thế giới và nhận về rất nhiều phản hồi tích cực từ du khách khắp nơi. Không chỉ lưu giữ những giá trị tâm hồn người Việt mà nó còn thể hiện được sự tài hoa của con người. Ngày nay, làng tranh dân gian Đông Hồ không chỉ là nơi sản xuất những bức tranh đẹp, ý nghĩa mà nó còn là địa điểm du lịch hấp dẫn được rất nhiều du khách ghé thăm. Người ta cố gắng mua một bức tranh Đông Hồ về treo nhà vừa để thể hiện sự sang trọng lại vừa mong muốn an lành cho gia đình.
-
Cũng như tranh làng Sình, tranh Kim Hoàng, tranh Hàng Trống… tranh Đông Hồ ở Bắc Ninh là một dòng tranh dân gian đặc sắc của Việt Nam. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, tranh Đông Hồ vẫn tồn tại với những nét độc đáo, tiêu biểu cho nghệ thuật dân gian nước nhà.
Tranh Đông Hồ có tên gọi đầy đủ là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, xuất xứ từ làng nghề nổi tiếng thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Mặc dù có truyền thống lâu đời nhưng do dân làng không thờ tổ nghề và cũng không có tài liệu nào ghi chép cụ thể nên không ai biết rõ tranh Đông Hồ từ đầu mà có.
Tranh Đông Hồ hấp dẫn, gần gũi với mọi người có lẽ là ở màu sắc, bố cục khuôn hình và đặc biệt là ở chất liệu tạo nên tranh hoàn toàn từ tự nhiên: từ bản khắc gỗ, giấy dó, lớp hồ điệp đến màu sắc. Giấy in tranh Đông Hồ được gọi là giấy điệp. Đây là loại giấy được người ta nghiền nát từ vỏ con điệp - một loại sò vỏ mỏng ở biển rồi trộn với hồ. Hồ này cũng được nấu từ bột gạo nếp hoặc bột gạo tẻ, có khi là cả bột sắn. Cùng với giấy điệp, màu sắc của tranh Đông Hồ cũng là quà tặng của thiên nhiên kì thú và bàn tay khéo léo, sự tìm tòi của nghệ nhân làm tranh. Màu đỏ rực rỡ chiết từ gỗ vang hay sỏi son trên núi Thiên Thai, màu vàng ấm lấy từ hoa dành dành hay hoa hòe, màu xanh mát lấy từ lá chàm - loại lá vẫn được dùng để nhuộm áo, màu đen lấy từ than gỗ xoan hay than lá tre được ngầm kĩ trong chum vại vài tháng. Chỉ với bốn màu cơ bản: đen, vàng, đỏ, xanh, các nghệ nhân vẫn làm nên những bức tranh hết sức sống động, hài hòa và vô cùng độc đáo. Sự sống động đó đều nhờ vào cách chế màu, hãm màu tỉ mỉ và khéo léo của các nghệ nhân. Sự cầu kì, cẩn thận từ cách tạo giấy đến chế màu ấy đã làm nên tuổi thọ dài lâu và vẻ đẹp bền vững của tranh Đông Hồ. Giấy điệp có thể tổn tại hơn năm trăm năm, còn màu sắc tranh Đông Hồ luôn rực rỡ, tươi sáng như lúc vừa mới in xong, không bị phai hay bay màu.
Để có được một bức tranh đẹp, các màu in tranh thường được lấy từ chất liệu thiên nhiên: màu đen người ta phải đốt lá tre rồi lấy than của nó, màu xanh lấy từ vỏ lá tràm, màu vàng lay từ hoa hoè, màu đỏ thắm lấy từ thân, rễ cây vang, màu sơn lấy từ sỏi núi, màu trắng là điệp... Những năm gần dây có một số người khi in tranh đã từng dùng một số màu và hóa chất hiện đại, như thế sản phẩm có tăng nhưng chất liệu màu của tranh không tươi màu, sắc nét như tranh làm truyền thống. Đã thế, chỉ trong một thời gian ngắn màu sắc sẽ bị phai nhạt, không bền màu.
Tranh dân gian Đông Hồ không áp dụng chặt chẽ về cơ thể học, các nguyên tắc về ánh sáng hay luật xa gần như tranh hiện đại. Những nghệ sĩ sáng tác tranh dân gian mang nhiều tính ước lệ trong bố cục, trong cách miêu tả về màu sắc. Tất cả đều sử dụng lối vẽ đơn tuyến bình đồ để thế hiện, do đó xem tranh dân gian ta thường bắt gặp cái thú vị ở những nét ngây ngô đơn giản nhưng hợp lý hợp tình.Tranh dân gian Đông Hồ đã trải qua rất nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử. Có một dạo nghề tranh bị lãng quên nên đã mai một nhiều. Không ít hộ đã bỏ lại tranh chuyển sang làm nghề vàng mã. Tuy nhiên một vài năm trở lại đây, nhận ra giá trị mộc mạc, vẻ đẹp sang trọng của tranh Đông Hồ mà nghề tranh đã được “tái phục hồi” trở thành một trong những thứ không thể thiếu trong đời sống tinh thần của con người nhất là dịp tết đến xuân về.
Xã hội ngày càng phát triển, sẽ có nhiều loại tranh ra đời nhưng tranh Đông Hồ mãi là dòng tranh độc đáo của dân tộc Việt Nam. Nó không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn là nét đẹp văn hóa của dân tộc. Vì vậy, thế hệ hôm nay hãy bảo tồn và phát huy để “màu dân tộc” sẽ mãi luôn “sáng bừng trên giấy điệp”.
-
Làng tranh Đông Hồ thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Từ bao đời nay, người dân Việt Nam đã quen cái tên Đông Hồ gần liền với nghề về tranh dân gian nổi tiếng. Trước đây, hầu như nhà nào cũng làm tranh, nhưng nay, số gia đình chuyên làm về tranh Đông Hồ còn lại không nhiều, điều đó càng khiến cho những gì còn lưu lại trở nên quý giá.
Tranh Đông Hồ có tên gọi đầy đủ là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, xuất xứ từ làng nghề nổi tiếng thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Tranh của làng Đông Hồ có từ thời Lê. Ở cái làng nghèo mà hào hoa như tranh Đông Hồ trước đây thường truyền nhau câu ca "Làng Mai có lịch có 26 sông tắm mát, có nghề làm tranh". Qua nhiều thế kỷ, 17 dòng họ đã quy về làng, vốn xưa tất cả đều làm tranh. Không khí sẩm uất vào cữ tháng một, tháng chạp, các thuyền từ xứ Đông, xứ Đoài ghé bên "ăn tranh". Người làng tranh trước ở ngoài đê vào mùa vụ làm tranh cũng phải một sương nắng tất bật khuya sớm. Thôi thì chỗ này rậm rịch tiếng chày giã điệp, chỗ dỡ ván in tranh cọ rửa lau chùi sạch sẽ. Khói đốt than lá tre ấn hiện la đà các ngọn cây. Làng Đông Hồ ruộng đất ít, sông chủ yếu bằng nghề làm. Nghề làm tranh trong làng rất được trọng vọng. Ai có hoa tay, có thú chơi cấm, kỳ, thi, họa đều được mọi người vị nể (cũng là theo cái thú ta của nhà nho xưa). Tranh Đông Hồ, hay tên đầy đủ là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, là một dòng tranh dân gian Việt Nam. Trước kia tranh được bán chủ yếu phục vụ cho dịp Tết Nguyên Đán, người dân nông thôn mua tranh dán trên tường, hết năm lại lột bỏ, dung tranh mới. Tranh làng Đông không phải vẽ theo cảm hứng nghệ thuật mà người ta dùng ván để in. Tranh được in hoàn toàn bằng tay với các bản màu, mỗi màu dùng một bản, và nét (màu đen) in sau cùng. Nhờ cách in này, tranh được "sản xuất" với số lượng lớn và không đòi hỏi kỹ năng cầu kỳ nhiều. Tuy nhiên vì in trên ván một cách thủ công, nên tranh bị hạn chế về mặt kích thước, thông thường tờ tranh không lớn quá 50 cm mỗi chiều. Để có những bản khắc đạt đến trình độ tinh xảo phải có người vẽ mẫu. Những người vẽ mẫu và bản khắc ván hỏi họ phải có lòng yêu nghệ thuật và tâm hồn nghệ sĩ, đặc biệt phải có trình độ kỹ thuật cao.
Công đoạn in tranh có lẽ không khó lắm bởi lẽ ai cũng có thể phết màu lên ván rồi in. Giấy dùng in tranh là loại giấy gió mịn mặt. Trước khi in, giấy được bồi điệp làm nền, chất điệp óng ánh lấy từ vỏ con sò, con hến tạo nên chất liệu riêng biệt của tranh dân gian Đông Hồ. Sau khi in thành tranh, kể cả lúc tranh khô, người xem vẫn cảm nhận được màu sắc của tranh thật tươi tắn như lúc tranh ướt. Các hình khối, mảng nọ đặt cạnh mảng kia sự ăn ý hài hoà một cách tự nhiên. Các màu đã hoà quyện in tranh thường từ chất liệu thiên nhiên: màu đen người ta phải đốt lá tre rồi lấy than của màu xanh lấy từ vỏ và lá tràm, màu vàng lấy từ hoa hòe, màu đỏ thắm lấy thân, rễ cây vang, màu son lấy từ sỏi núi, màu trắng là điệp... Xem tranh gian ta thường bắt gặp cái thú vị ở những nét ngây ngô đơn giản nhưng họ, hợp tình. Tranh Đông Hồ còn hấp dẫn bởi vẻ rực rỡ, sắc màu tươi rói những bộ tứ binh, Thạch Sanh, những gà, lợn, mèo, chuột, ngựa...
Tranh Đông Hồ gồm các loại: Tranh thờ - bộ ngũ sự, tranh lịch sử: Hai Trưng, Bà Triệu..., truyện tranh: Thánh Gióng, Truyện Kiều, Thạch Sanh, phổ biến nhất là chúc tụng, ví như tranh Vinh hoa - Phú quý, Nghi xuân, Gà (xem thêm Bảy bức tranh gà), tranh sinh hoạt: Đánh Ghen, Chăn Trâu Thổi Sách. Nhà Nông, Đám cưới Chuột, Hái dừa... Tranh Đông Hổ có đặc điểm thường là những hình ảnh sung túc như đám cưới chuột, cảnh trai gái cùng nhau hái dừa, cảnh cá chép nhiều màu vẫy đuôi... thể hiện mong muốn về sự sung túc.
Tranh dân gian Đông Hồ không áp dụng chặt chẽ về cơ thề học, các nguyên lí về ánh sáng hay luật xa gần như tranh hiện đại. Những nghệ sĩ sáng tác tranh gian mang nhiều tính ước lệ trong bố cục, trong cách miêu tả về màu sắc. Tất cả đều sử dụng lối vẽ đơn tuyến bình đồ để thể hiện, do đó xem tranh dân gian thường bắt gặp cái thú vị ở những nét ngây ngô đơn giản nhưng hợp lý hợp tình.
Bởi thế, không chỉ có người Hà Nội và dân một số tỉnh thành trong nước thích tranh dân gian Đông Hồ đã cất công về tận làng tranh để tham quan tìm hiểu và chọn mua, mà không ít du khách, những người trong lĩnh vực hội họa, mỹ thuật của nước ngoài cũng tìm về tận đây để nghiên cứu về nghệ thuật tranh dân gian nổi tiếng của làng Hồ. Đây cũng là một trong những cách để bảo tồn và phát triển tranh.
-
Nghe đến cái tên Đông Hồ là nhắc đến một ngôi làng xinh xắn nằm bên cạnh bờ sông Đuống thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, Hà Bắc cũ nay là tỉnh Bắc Ninh cách thủ đô khoảng 35km. Đây là một trong những ngôi làng nổi tiếng về những bức tranh dân gian đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.
Căn cứ vào các gia phả trong làng thì tranh Đông Hồ xuất hiện muộn nhất là vào đời Lê, tức là cách đây khoảng 500 năm. Còn theo lịch sử của làng thì gia đình đã gắn bó với nghề lâu nhất ở đây là gia đình ông Nguyền Đăng Chế. Đến nay, gia đình ông đã có 20 đời làm nghề. Cả đại gia đình ông ba thế hệ đều tâm huyết với tranh Đông Hồ.
Tranh Đông Hồ hấp dẫn, gần gũi với mọi người có lẽ là ở màu sắc, bố cục khuôn hình và đặc biệt là ở chất liệu tạo nên tranh hoàn toàn từ tự nhiên: từ bản khắc gỗ, giấy dó, lớp hồ điệp đến màu sắc. Giấy dùng in tranh là loại giấy dó mịn mặt. Trước khi in, giấy được bồi điệp làm nền, chất điệp óng ánh lấy từ vỏ Con sò, con hến đã tạo nên chất liệu riêng biệt của tranh dân gian Đông Hồ. Để có được một bức tranh đẹp. các màu in tranh thường được lấy từ chất liệu thiên nhiên: màu đen người ta phải đốt lá tre rồi lấy than của nó, màu xanh lấy từ vỏ lá tràm, màu vàng lấy từ hoa hoè. màu đỏ thẫm 13 từ thân, rễ cây vang, màu sơn lấy từ sỏi núi, màu trang là điệp... Những năm gần đây có một số người khi in tranh đã từng dùng một số màu và hóa chất hiện (làm như thế sản phẩm có tăng nhưng chất liệu màu của tranh không tươi màu sắc như tranh làm truyền thống. Đã thế, chỉ trong một thời gian ngắn màu sắc sẽ phai nhạt, không bền màu.
Có một điều đặc biệt là người dân làng Hồ chuyên sản xuất tranh nhưng chẳng bao giờ treo trong nhà mà đem bán hoặc cho hết. Hàng năm làng Hồ cơ hội làng vào rằm tháng ba âm lịch. Trong hội làng có những nghi thức truyền thống như tế thần, thi mã, thi tranh rất vui vẻ. Làng còn có các làn điệu dân ca như:
"Hỡi anh đi đường cái quan
Dừng chân ngắm cảnh mà tan nỗi sầu
Mua tờ tranh điệp tươi màu
Mua đàn gà lợn thi nhau đẻ nhiều".Theo thời gian làng tranh cũng trải qua biết bao nhiêu thăng trầm. Các cụ nghệ nhân trong làng kể lại: Hồi Pháp thuộc, người ở nhà Bác Cổ thỉnh thoảng sẽ đánh xe ô tô về mua tranh, thậm chí mua cả bàn khắc tranh nữa! Nhà cụ Lừ bản khắc tranh gà rất quý đưa đi đóng cửa chuồng gà, người Pháp phát hiện ra hỏi mua cụ bán liền. Nghĩ lại mà tiếc!
Trước kia, tranh Đông Hồ được bán ra chủ yếu phục vụ cho dịp Tết Nguyên Đán, người dân nông thôn mua tranh về dán trên tường, hết năm lại lột bỏ, dùng tranh mới. Trải qua những thăng trầm biến cố lịch sử, đã có lúc tranh Đông Hồ bị mai một, lãng quên nhưng ngày nay, giá trị tranh Đông Hồ đang được phục hồi. Không chỉ có giá trị văn hóa, nghệ thuật, lịch sử, tranh Đông Hồ còn có giá trị kinh tế và giá trị du lịch to lớn. Dòng tranh dân gian tiêu biểu này được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia và thu hút được sự quan tầm của nhiều du khách trong nước và quốc tế.
Xã hội ngày càng phát triển, sẽ có nhiều loại tranh ra đời nhưng tranh Đông Hồ mãi là dòng tranh độc đáo của dân tộc Việt Nam. Nó không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn là nét đẹp văn hóa của dân tộc. Hãy chung tay góp sức để đẩy mạnh giá trị của loại tranh truyền thống này bạn nhé. Đặc biệt hãy tận dụng mọi cơ hội để giới thiệu và đưa dòng tranh này tiếp cận với bạn bè Thế giới bạn nha!
-
Từ xa xưa trước mỗi cánh cửa nhà, trên những bức tường cũ kĩ vẫn luôn có bóng dáng của tranh Đông Hồ. Chẳng biết từ bao giờ mà nhân dân ta lại có thói quen mua tranh Đông Hồ về trang hoàng nhà cửa. Nhất là vào dịp Tết, nhà nào cũng phải có đôi bức treo trong nhà với mong muốn sung túc, ấm no. Cho đến nay, tranh Đông Hồ tuy không còn phát triển mạnh nhưng tầm ảnh hưởng của nó đã vươn mình ra khỏi những ngôi làng truyền thống. Tranh Đông Hồ mang đến cảm hứng cho nhiều lĩnh vực hội họa, điêu khắc, gốm sứ... để rồi trở thành một dòng tranh trường tồn mãi mãi với thời gian.
Tên gọi tranh Đông Hồ có từ thế kỷ 17, nguồn gốc xuất phát từ làng Đông Hồ, xã Song Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh - một làng làm tranh khắc gỗ nổi tiếng thời bấy giờ. Thời kì thịnh vượng nhất của tranh Đông Hồ là năm 1945, khi có đến 17 dòng họ trong làng Đông Hồ đều làm tranh. Ấy vậy mà đến nay chỉ còn 2 gia đình làm tranh, tuy vậy vẫn lưu giữ được hơn 1000 bản khắc gỗ và 500 bản khắc gỗ mẫu cổ đã được phục chế. Thời nay, tranh Đông Hồ đã trở nên phổ biến hơn, không chỉ được biết đến trong nước mà cả ngoài nước, du khách nước ngoài rất thích thú với tranh Đông Hồ. Tranh Đông Hồ thường có giá thành cao hơn các dòng tranh khác bởi quá trình làm thủ công, tỉ mỉ và chỉ những người biết thưởng thức, trân trọng giá trị mới cảm nhận được hết cái đẹp và ý nghĩa của tranh Đông Hồ. Thật vậy, làm tranh Đông Hồ rất phức tạp với nhiều công đoạn, yêu cầu người làm tranh phải thật khéo tay, tỉ mỉ, kiên nhẫn và có cảm hứng nghệ thuật. Trước tiên là sự phức tạp trong các dụng cụ làm tranh. Không đơn giản như tranh vẽ sơn màu chỉ cần giấy bút và màu, tranh Đông Hồ gồm nhiều dụng cụ, nhiều nguyên liệu. Không chỉ thế khâu chuẩn bị nguyên liệu còn phức tạp và cầu kì hơn. Như giấy in tranh phải là giấy từ vỏ cây gió rồi quét lên một lớp bột trắng nghiền ra từ vỏ sò điệp, hồ dán phải làm từ bột gạo tẻ (gạo nếp, bột sắn) trộn với nước thành dạng sệt bết dính để trộn với bột màu hoặc để phết lên khuôn khắc gỗ, chổi lá thông dùng để quét hồ, màu của tranh phải lấy từ các nguyên liệu tự nhiên như đốt gỗ xoan, rơm nếp, lá tre thành than để làm ra màu đen, lấy gỉ đồng, ủ lá chàm để (làm ra màu xanh), hoa giành giành, hoa hòe (làm ra màu vàng), gỗ vang, sỏi son (làm ra màu đỏ), vỏ sò điệp (làm ra màu trắng), ván khắc in tranh (gồm ván in nét và ván in màu) được làm từ gỗ thị, gỗ thừng mực, gỗ mỡ những loại gỗ tốt giữ sắc màu tươi lâu.
Người làm tranh Đông Hồ được gọi là những nghệ nhân bởi quy trình làm tranh cầu kỳ, cẩn thận, tinh tế. Đầu tiên là khắc gỗ để tạo thành bản in, một tranh có thể có nhiều bản khắc, mỗi bản khắc là một màu tương ứng với những chi tiết khác nhau. Tiếp theo là chuẩn bị các nguyên liệu để làm màu, trộn màu với hồ dán rồi quét màu lên các bản khắc gỗ, sau đó lấy từng bản khắc gỗ in lên giấy in tranh. Những nét trên bản khắc gỗ thường là nét cơ bản, vì thế để hoàn thiện bức tranh người nghệ nhân còn phải dùng bút để vẽ nốt các nét còn lại. Tranh hoàn thiện sẽ được đem phơi cho khô hết hồ dán và để bật màu tươi tắn nhất. Các loại tranh Đông Hồ phổ biến được bày bán nhiều hiện nay gồm các dòng tranh: tranh thờ, tranh lịch sử, tranh chúc tụng, tranh truyện, tranh cảnh vật, tranh phương ngôn, tranh phản ánh sinh hoạt. Tranh Đông Hồ mang rất nhiều ý nghĩa, mỗi dòng tranh lại có ý nghĩa khác nhau nhưng nhìn chung điều mà tranh Đông Hồ muốn truyền tải là những triết lý, thông điệp cuộc sống, câu chuyện ngụ ngôn. Ngày nay tranh Đông Hồ được dùng để trang trí hoặc làm quà tặng mang nhiều ý nghĩa: hạnh phúc, may mắn và thịnh vượng, chăm chỉ, cần cù. Việt Nam đã công nhận tranh Đông Hồ là Di sản văn hóa phi vật thể, nâng tầm ý nghĩa và giá trị của dòng tranh này.
Đứng trước một bức tranh Đông Hồ, dường như ta cảm thấy những nét hồn nhiên nhất, chân thật nhất, mộc mạc và chứa chan ý vị, phảng phất linh hồn dân tộc. Trân trọng, gìn giữ và phát triển cũng như bảo tồn tranh dân gian Đông Hồ chính là âm thầm nối tiếp nền văn hóa lâu đời. Chúng ta hãy cùng chung tay, cố gắng đưa dòng tranh Đông Hồ trở thành Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, đưa nét văn hóa Việt Nam đến với bạn bè quốc tế. -
Từ xa xưa, hình ảnh của tranh Đông Hồ đã trở nên quen thuộc trên những bức tường và cửa nhà. Trong dịp Tết, hầu như mọi người đều treo tranh trong nhà, hi vọng mang lại sự sung túc và ấm no. Dù không còn phổ biến như trước, tranh Đông Hồ vẫn giữ vị thế của mình và ảnh hưởng rộng rãi đến nghệ thuật. Tranh Đông Hồ đã truyền cảm hứng cho nhiều lĩnh vực như hội họa, điêu khắc, và gốm sứ, trở thành một dòng tranh bền vững qua thời gian.
Tên gọi 'tranh Đông Hồ' xuất hiện từ thế kỷ 17, bắt nguồn từ làng Đông Hồ, xã Song Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh - một làng nổi tiếng với nghệ thuật khắc gỗ. Trong thời kỳ phồn thịnh nhất là năm 1945, có đến 17 dòng họ ở làng Đông Hồ tham gia làm tranh. Ngày nay, chỉ còn 2 gia đình duy trì nghề, nhưng họ đã bảo tồn hơn 1000 bản khắc gỗ và 500 bản mẫu cổ. Tranh Đông Hồ không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn thu hút du khách quốc tế. Với giá trị nghệ thuật cao và quy trình sản xuất phức tạp, tranh Đông Hồ trở thành biểu tượng của sự đẹp và ý nghĩa. Người làm tranh Đông Hồ cần sự khéo léo, tỉ mỉ, kiên nhẫn và đam mê nghệ thuật.
Nghệ nhân làm tranh Đông Hồ được biết đến với quy trình tạo tranh tinh tế, cầu kỳ và cẩn thận. Khám phá quá trình khắc gỗ để tạo bản in, mỗi bản khắc mang một màu sắc và chi tiết độc đáo. Tranh Đông Hồ không chỉ là nét cơ bản trên bản khắc gỗ mà còn là sự hoàn thiện qua việc sử dụng bút vẽ nốt các chi tiết còn thiếu. Những bức tranh hoàn thiện được phơi khô, làm bật màu sắc tươi tắn nhất. Các loại tranh Đông Hồ phổ biến bao gồm tranh thờ, tranh lịch sử, tranh chúc tụng, tranh truyện, tranh cảnh vật, tranh phương ngôn và tranh phản ánh sinh hoạt. Tất cả đều mang ý nghĩa triết lý, thông điệp cuộc sống và câu chuyện ngụ ngôn. Ngày nay, tranh Đông Hồ không chỉ làm đẹp mà còn là quà tặng ý nghĩa với những thông điệp về hạnh phúc, may mắn, thịnh vượng, chăm chỉ và cần cù. Việt Nam đã công nhận tranh Đông Hồ là Di sản văn hóa phi vật thể, nâng tầm giá trị của dòng tranh này.
Đứng trước một tác phẩm tranh Đông Hồ, ta cảm nhận sự hồn nhiên, chân thật và mộc mạc, là nơi chứa đựng linh hồn dân tộc. Gìn giữ và phát triển tranh Đông Hồ là cách âm thầm kế thừa nền văn hóa lâu đời. Hãy cùng nhau đóng góp, tạo nên Di sản văn hóa phi vật thể cho nhân loại, đưa văn hóa Việt Nam ra thế giới.
-
"Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”
Cũng như tranh làng Sình, tranh Kim Hoàng, tranh Hàng Trống…tranh Đông Hồ ở là một dòng tranh dân gian đặc sắc của Việt Nam. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, tranh Đông Hồ vẫn tồn tại với những nét độc đáo, tiêu biểu cho nghệ thuật dân gian nước nhà.
Tranh Đông Hồ có tên gọi đầy đủ là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, xuất xứ từ làng nghề nổi tiếng thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Mặc dù có truyền thống lâu đời nhưng do dân làng không thờ tổ nghề và cũng không có tài liệu nào ghi chép cụ thể nên không ai biết rõ tranh Đông Hồ từ đầu mà có.
Tranh Đông Hồ hấp dẫn, gần gũi với mọi người có lẽ là ở màu sắc, bố cục khuôn hình và đặc biệt là ở chất liệu tạo nên tranh hoàn toàn từ tự nhiên: từ bản khắc gỗ, giấy dó, lớp hồ điệp đến màu sắc. Giấy in tranh Đông Hồ được gọi là giấy điệp. Đây là loại giấy được người ta nghiền nát từ vỏ con điệp – một loại sò vỏ mỏng ở biển rồi trộn với hồ. Hồ này cũng được nấu từ bột gạo nếp hoặc bột gạo tẻ, có khi là cả bột sắn. Cùng với giấy điệp, màu sắc của tranh Đông Hồ cũng là quà tặng của thiên nhiên kì thú và bàn tay khéo léo, sự tìm tòi của nghệ nhân làm tranh. Màu đỏ rực rỡ chiết từ gỗ vang hay sỏi son trên núi Thiên Thai, màu vàng ấm lấy từ hoa dành dành hay hoa hòe, màu xanh mát lấy từ lá chàm – loại lá vẫn được dùng để nhuộm áo, màu đen lấy từ than gỗ xoan hay than lá tre được ngầm kĩ trong chum vại vài tháng. Chỉ với bốn màu cơ bản: đen, vàng, đỏ, xanh, các nghệ nhân vẫn làm nên những bức tranh hết sức sống động, hài hòa và vô cùng độc đáo. Sự sống động đó đều nhờ vào cách chế màu, hãm màu tỉ mỉ và khéo léo của các nghệ nhân. Sự cầu kì, cẩn thận từ cách tạo giấy đến chế màu ấy đã làm nên tuổi thọ dài lâu và vẻ đẹp bền vững của tranh Đông Hồ. Giấy điệp có thể tổn tại hơn năm trăm năm, còn màu sắc tranh Đông Hồ luôn rực rỡ, tươi sáng như lúc vừa mới in xong, không bị phai hay bay màu.
Để hoàn thành một bức tranh, người làm tranh phải rất công phu, cẩn thận và thực hiện nhiều giai đoạn: sơn hồ lên giấy, phơi giấy cho khô hồ, quét điệp rồi lại phơi giấy cho khô lớp điệp, khi in tranh phải in từng màu lần lượt, nếu có 5 màu thì 5 lần in, mỗi lần in là một lần phơi… Cứ như thế, từng lớp, từng lớp dưới ánh sáng mặt trời lấp lánh các hình ảnh, đường nét của cảnh sắc thiên nhiên, nếp sinh hoạt của người dân cứ hiện ra làm say đắm lòng người.
Tranh Đông Hồ có nhiều chủ đề, nội dung tranh đa dạng và phong phú nhưng được chia thành 5 loại phổ biến đó là: tranh tâm linh, tranh lịch sử, truyện tranh, tranh chúc tụng, tranh sinh hoạt. Nhắc đến tranh Đông Hồ, có lẽ mọi người không thể không biết đến một số bức tranh tiêu biểu nổi tiếng. Bức tranh “Đám cưới chuột” ngụ ý như lời cảnh báo, nhắc nhở và răn dạy những người có chức có quyền nên sống sao cho phải đạo. Đồng thời cũng là lời nhắc nhở cho các thế hệ trẻ trong gia đình biết đối nhân xử thế. “Vinh Quy Bái Tổ” là tên của bức tranh dân gian Đông Hồ nổi tiếng, thường là phần thưởng vinh danh người đỗ đạt và cho cha mẹ họ hàng, làng xóm, thầy dạy. Bức tranh như lời nhắc nhở ý nghĩa cho thế hệ trẻ cố gắng nỗ lực học tập vươn tới thành công… Ngoài ra còn rất nhiều bức tranh mang ý nghĩa sâu sa khác nữa,… Như vậy, các bức tranh Đông Hồ đều mang những ngụ ý và những điều tốt đẹp mà ông cha muốn dăn dạy nhắc nhở thế hệ con cháu sau này. Các bức tranh Đông Hồ chính là những món quà tặng đại diện cho Việt Nam vô cùng đáng quý giá.
Trước kia, tranh Đông Hồ được bán ra chủ yếu phục vụ cho dịp Tết Nguyên Đán, người dân nông thôn mua tranh về dán trên tường, hết năm lại lột bỏ, dùng tranh mới. Trải qua những thăng trầm biến cố lịch sử, đã có lúc tranh Đông Hồ bị mai một, lãng quên nhưng ngày nay, giá trị tranh Đông Hồ đang được phục hồi. Không chỉ có giá trị văn hóa, nghệ thuật, lịch sử, tranh Đông Hồ còn có giá trị kinh tế và giá trị du lịch to lớn. Dòng tranh dân gian tiêu biểu này được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia và thu hút được sự quan tầm của nhiều du khách trong nước và quốc tế.
Xã hội ngày càng phát triển, sẽ có nhiều loại tranh ra đời nhưng tranh Đông Hồ mãi là dòng tranh độc đáo của dân tộc Việt Nam. Nó không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn là nét đẹp văn hóa của dân tộc. Vì vậy, thế hệ hôm nay hãy bảo tồn và phát huy để “màu dân tộc” sẽ mãi luôn “sáng bừng trên giấy điệp”. -
Làng tranh Đông Hồ thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Từ bao đời nay, người dân Việt Nam đã quen cái tên Đông Hồ gần liền với nghề về tranh dân gian nổi tiếng. Trước đây, hầu như nhà nào cũng làm tranh, nhưng nay, số gia đình chuyên làm về tranh Đông Hồ còn lại không nhiều, điều đó càng khiến cho những gì còn lưu lại trở nên quý giá.
Không ai biết chính xác nghề tranh Đông Hồ ra đời từ bao giờ, nhưng căn cứ vào các gia phả trong làng thì muộn nhất là vào đời Lê, tức là cách đây khoảng 500 năm. Còn theo lịch sử cùa làng thì gia đình đã gắn bó với nghề lâu nhất ở đây là gia đình ông Nguyễn Đăng Chế. Đến nay, gia đình ông đã có 20 đời làm nghề. Cả đại gia đình ông ba thế hệ đều tâm huyết với tranh Đông Hồ. Trung tâm giao lưu văn hóa tranh dân gian Đông Hồ do con cháu ông đóng góp xây dựng rộng 5.500 mét vuông vừa mới khánh thành thực sự tạo ra được một không gian văn hoá độc đáo, trở thành một địa chỉ không thể thiếu với các tua du lịch làng nghề cho du khách trong và ngoài nước.
Khác với nhiều loại tranh trên thị trường hiện nay, tranh làng Đông Hồ không phải vẽ theo cảm hứng nghệ thuật mà là dùng ván để in. Để có những bản khắc đạt đến trình độ tinh xảo phải có người vẽ mẫu. Những người vẽ mẫu vào bản khác ván đòi hòi họ phải có lòng yêu nghệ thuật và tâm hồn nghệ sĩ, đặc biệt phải có trình độ kỹ thuật cao. Công đoạn in tranh có lẽ không khó lắm bởi lẽ ai cũng có thể phết màu lên ván rồi in.
Giấy dùng in tranh là loại giấy dó mịn mặt. Trước khi in, giấy được bồi điệp làm nền, chất điệp óng ánh lấy từ vỏ con sò, con hến đã tạo nên chất liệu riêng biệt của tranh dân gian Đông Hồ. Để có được một bức tranh đẹp. các màu in tranh thường được lấy từ chất liệu thiên nhiên: màu đen người ta phải đốt lá tre rồi lấy than của nó, màu xanh lấy từ vỏ lá tràm, màu vàng lấy từ hoa hoè. màu đỏ thẫm 13 từ thân, rễ cây vang, màu sơn lấy từ sỏi núi, màu trắng là điệp... Những năm gần đây có một số người khi in tranh đã từng dùng một số màu và hóa chất hiện, làm như thế sản phẩm có tăng nhưng chất liệu màu của tranh không tươi màu sắc như tranh làm truyền thống. Đã thế, chỉ trong một thời gian ngắn màu sắc sẽ phai nhạt, không bền màu.Tranh dân gian Đông Hồ không áp dụng chặt chẽ về cơ thể học, các nguyên lí về ánh sáng hay luật xa gần như tranh hiện đại. Những nghệ sĩ sáng tác tranh dân gian mang nhiều tính ước lệ trong bố cục, trong cách miêu tả về màu sắc. Tất cả đều sử dụng lối vẽ đơn tuyến bình đồ để thể hiện, do đó xem tranh dân gian thường bắt gặp cái thú vị ở những nét ngây ngô, đơn giản nhưng hợp lý, hợp tình.
Bởi thế, không chỉ có người Hà Nội và dân một số tỉnh thành trong nước thích tranh dân gian Đông Hồ đã cất công về tận làng tranh để tham quan, tìm hiểu và chọn mua, mà không ít du khách, những người trong lĩnh vực hội họa, mỹ thuật của nước ngoài cũng tìm về tận đây để nghiên cứu về nghệ thuật tranh dân gian nổi tiếng của làng Hồ. Đây cũng là một trong những cách để bảo tồn và phát triển tranh.