Top 8 Bài văn phân tích Người ở bến sông Châu của Sương Nguyệt Minh (Ngữ văn 10) hay nhất

Thai Ha 1561 0 Báo lỗi

Đề tài hậu chiến đã không còn là đề tài xa lạ trong nền văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Là một nhà văn quân đội, tác giả Sương Nguyệt Minh đã đem đến cho bạn ... xem thêm...

  1. Đề tài hậu chiến đã không còn là đề tài xa lạ trong nền văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Là một nhà văn quân đội, tác giả Sương Nguyệt Minh đã đem đến cho bạn đọc những góc nhìn mới về hiện thực cuộc sống sau chiến tranh qua truyện ngắn "Người ở bến sông Châu". Tác phẩm đã thể hiện một cách đầy chân thực hoàn cảnh và số phận của con người kể từ khi đất nước thống nhất.


    Sau năm 1975, Nam Bắc về chung một nhà, cả đất nước vui mừng, reo vang khúc ca khải hoàn. Người ta tưởng rằng, kết thúc chiến tranh là kết thúc toàn bộ nỗi đau, mất mát. Thế nhưng không phải vậy, con người ta vẫn phải chiến đấu ngay cả trong thời bình, giống như cách mà dì Mây cố gắng vượt lên nỗi đau. Số phận của dì Mây trong tác phẩm cũng là hoàn cảnh của biết bao con người đi ra từ đống hoang tàn, đổ nát mà chiến tranh để lại.


    Là một y sĩ Trường Sơn, dì Mây trở về với cơ thể khiếm khuyết. Người ta bảo nhau rằng "cô y sĩ Trường Sơn bị mảnh đạn phạt một chân". Lúc trước khi ra trận, dì Mây có mái tóc đẹp vô cùng, "tóc dì đen óng mượt" đến nỗi chú San "nấp bên hàng râm bụt nhìn trộm cũng phải giật mình". Lúc chạy ngược chiều gió, "tóc dì xổ tung bay bồng bềnh, bồng bềnh như mây". Vậy mà, khi trở về, tóc dì "rụng nhiều, xơ và thưa". Có lẽ, chiến tranh đã tàn phá sức khỏe của dì. Đồng thời, cướp đi vẻ đẹp tươi trẻ, cướp đi tuổi thanh xuân tràn đầy sức sống của người con gái.


    Không chỉ có số phận bất hạnh, phải chịu nỗi đau về thể xác, dì Mây còn sống trong nỗi dày vò, ám ảnh về mặt tinh thần. Chiến tranh gây ra biết bao bi kịch, tước đoạt đi hạnh phúc vốn có của con người. Ngày cô y sĩ xông pha ngoài mặt trận trở về bên bến sông Châu cũng là ngày người yêu cô - chú San đi lấy người khác. Biết được tin người mình thương đi lấy vợ, dì Mây xót xa, nghẹn đắng. Ngồi nói chuyện với ông bà mà tâm trí dì đặt bên nhà chú San. Dù rất yêu San nhưng dì Mây vẫn kiên quyết đoạn tình để chú về với vợ. Tác giả đã tạo nên tình huống éo le, trớ trêu giữa hai người. Có lẽ, trong suy nghĩ của mọi người, dì Mây đã bỏ mạng nơi chiến trường. Vì thế, chú San mới quyết định đi lấy vợ sau tháng ngày dài ngóng chờ tin tức từ người thương. Tình huống oái oăm ấy cũng chính là hiện thực trần trụi khi chiến tranh qua đi. Chiến tranh gây ra biết bao sự hiểu lầm không đáng có, là nguyên nhân sâu xa dẫn đến cảnh chia lìa. Về sau này, ta còn thấy sự xuất hiện của chú Quang. Chú Quang cũng có tình cảm đặc biệt dành cho dì Mây. Biết được điều đó nhưng dì Mây tự ti về bản thân và quyết định không đáp trả. Dường như, những khiếm khuyết trên cơ thể mà chiến tranh để lại khiến con người ta không dám đi tìm hạnh phúc của riêng mình.

    Đặc biệt, chiến tranh đẩy biết bao gia đình rơi vào cảnh chia lìa, tang thương. Vì vướng bom bi trong lúc đun te nên thím Ba đã qua đời. Cái chết của Dì khiến ai nấy đều cảm thương, đau buồn không ngớt. Thằng Cún - con dì từ ấy cũng trở thành trẻ mồ côi.


    Khác với văn học thời kì trước, văn xuôi Việt nam sau năm 1975 đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Con người trong văn chương không còn là con người mang vẻ đẹp toàn bích như cô Nguyệt trong "Mảnh trăng cuối rừng" của nhà văn Nguyễn Minh Châu mà hiện lên với vẻ đẹp đời thường, dung dị và dì Mây trong tác phẩm cũng như thế. Vẻ đẹp phẩm chất, tính cách của dì Mây để lại cho người đọc biết bao niềm rung cảm, khâm phục.


    Trước hết, dì Mây là một người con gái vô cùng chung thủy. Dù phải tạm rời xa tình yêu của mình là chú San để lên đường làm y sĩ Trường Sơn nhưng dì Mây vẫn luôn mang theo hình bóng của chú, "trang nhật kí nào em cũng viết tên anh". Tuy nhiên, khi biết chú San đã có vợ, dì Mây nhất quyết không đồng ý trước lời đề nghị "Mây! Chúng ta sẽ làm lại", "Anh sẽ từ bỏ tất cả. Chúng ta về sống với nhau.". Thái độ của dì Mây vô cùng kiên quyết, dứt khoát. Hành động "bật dậy, chống nạng gỗ cộc cộc đi vào sân" bỏ mặc chú San lại đã minh chứng rõ nét cho điều đó. Dì Mây nhận phần thiệt về mình để người mình yêu được hạnh phúc. Câu nói "Thôi! Thôi! Lỡ rồi! Đằng nào cũng chỉ một người đàn bà khổ. Anh về đi!" khiến người đọc không khỏi cảm thấy xót xa. Dì khuyên chú San nên quay về với vợ, sống cho hạnh phúc "Sự thể đã thế, cố mà sống cho vuông tròn". Nếu dì đồng ý lời đề nghị của chú thì cả ba người sẽ đau khổ. Chính vì vậy, dì chấp nhận buông tay mối tình sâu đậm của mình để vun vén cho đôi vợ chồng mới cưới.


    Mặc dù phải chịu nỗi đau cả về thể xác lẫn tinh thần nhưng chưa bao giờ ta thấy dì Mây có ý định từ bỏ sự sống. Ở dì luôn ánh lên một nghị lực sống phi thường. Mất một chân, dì vẫn chống nạng, giúp ông chèo đò, vẫn tiếp tục sống sau cú sốc đầy đau đớn. Đặc biệt, dì Mây còn là người có tấm lòng nhân hậu, giàu tình yêu thương. Kể từ ngày chèo đò giúp ông, dì chưa bao giờ lấy tiền đò của lũ trẻ cấp ba. Nghe thấy câu nói của chúng, dì còn cười trêu "Đáng là bao, cho chúng mày nợ đến nữa có lương rồi trả". Những đêm mưa, đường đá khấp khểnh, dì vẫn miệt mài đến nhà khám bệnh cho mọi người. Thấy dì đi lại vất vả, ông trưởng trạm xá khuyên dì nên học đi xe đạp, ông sẽ rải đá mạt cho. Đáp lại lời ông, dì nói "Trạm xá còn thiếu thuốc. Tôi cố, cũng như người tập thể dục.". Câu trả lời ấy cho thấy dì rất giàu đức hi sinh, luôn đặt lợi ích của mọi người lên trên bản thân. Vào một đêm mưa, vợ chú San vượt cạn thiếu tháng. Thấy Thanh rơi vào tình thế nguy hiểm, dì không mảy may quan tâm đến những lời thím Ba nói, sẵn sàng giúp vợ chú San sinh con. Ở trong hoàn cảnh của dì, việc đó không hề dễ dàng nhưng dì vẫn ân cần giúp đỡ. Đặc biệt, khi thím Ba không may qua đời do bom nổ, dì dang rộng vòng tay, chăm sóc, yêu thương thằng Cún. Dì Mây hội tụ nhiều phẩm chất tốt đẹp, vừa kiên cường, mạnh mẽ, vừa bao dung, vị tha.


    Với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc cùng tình huống truyện độc đáo, lôi cuốn người đọc, tác giả Sương Nguyệt Minh đã tái hiện lại bức tranh đầy sống động về con người sau cuộc chiến. Bước ra khỏi đống đổ nát, tro tàn của chiến tranh, con người phải đối mặt, chịu đựng với biết bao giày vò, khổ sở. Tác phẩm cho thấy nỗi đau khổ, bất hạnh của con người kể từ khi đất nước thống nhất. Đồng thời, gửi gắm bài học về lòng biết ơn đến các thế hệ cha ông đã không tiếc tuổi thanh xuân cho nền độc lập, tự do của Tổ quốc.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ

  2. Khi nhắc đến chiến tranh, người ta vẫn thường mường tượng đến cảnh chiến trường khốc liệt với mưa bom bão đạn, sự hy sinh anh dũng của biết bao nhiêu chiến sĩ cách mạng. Thế nhưng, những hậu quả mà chiến tranh để lại còn đau đớn, xót xa hơn biết bao nhiêu. Sau khi trận chiến kết thúc, trả về cho cuộc đời những con người với những chấn thương cả về thể xác và tâm hồn. Để hiểu rõ hơn về số phận của con người thời hậu chiến phải nhắc đến tác phẩm "Người ở bến sông Châu" của tác giả Sương Nguyệt Minh.

    Truyện ngắn "Người ở bến sông Châu" được viết vào tháng 6 năm 1997, khi đất nước đã giành được độc lập. Chiến tranh kết thúc nhưng con người vẫn phải gánh chịu những đau thương cả về thể xác và tâm hồn. Thông qua câu chuyện về cuộc đời dì Mây, tác giả đã mang đến cho người đọc cảm nhận sâu sắc về số phận của những con người bước ra từ chiến tranh.


    Tác giả đã miêu tả chân thực số phận bất hạnh của con người sau chiến tranh thông qua việc khắc họa nhân vật dì Mây. Tham gia cách mạng với cơ thể lành lạnh, nhưng ngày trở về dì Mây lại đi khập khiễng vì bị "mảnh đạn phạt một chân". Trước kia, dì Mây là một cô gái với mái tóc đen óng mượt. Nhưng từ khi trở về từ chiến trường, tóc dì rụng, xơ và thưa. Chiến tranh đã cướp đi vẻ đẹp tươi trẻ của dì. Có lẽ sẽ không có phép màu nào giúp cho những thương tích của cuộc chiến trở lại lành lặn như trước trên cơ thể dì Mây. Hẳn là, dì Mây sẽ phải mang theo mình chiếc nạng gỗ mãi mãi và những vết thương lòng vẫn sẽ còn hằn sâu trong tâm trí.


    Đau đớn thay cái ngày mà dì Mây từ chiến trường về, lại là ngày chú San - người yêu dì đi lấy vợ. Khi vừa trở về giọng của dì nghèn nghẹn, dì "im lặng, tập tễnh" theo sau ông về xóm trại. Khi nói chuyện với chú San dì đã nuốt nước mắt vào trong để từ chối tình cảm của chú. Tác giả xây dựng tình huống bất ngờ, éo le, nan giản để làm nổi bật nỗi lòng của nhân vật. Cảm xúc của dì Mây ban đầu là ngổn ngang, xúc động, sau đó là đau khổ, uất ức, xót xa. Dì Mây vẫn còn yêu chú San nhưng dì hiểu rõ nhất hoàn cảnh hiện tại để dứt khoát buông tay. Người phụ nữ đó nguyện hi sinh tình cảm cá nhân để người mình yêu được hạnh phúc. Qua việc xây dựng tình huống đầy trớ trêu, tác giả đã giúp người đọc cảm nhận được nỗi lòng đầy đau khổ của dì Mây. Chiến tranh không chỉ in hằn lên con người nỗi đau về thể xác mà còn cả đau đớn về mặt tinh thần.


    Bước ra từ cuộc chiến với biết bao đau khổ, nhưng dì Mây vẫn hiện lên với những phẩm chất đáng quý. Trước hết, đây là người phụ nữ mang tấm lòng yêu nước, dũng cảm. Dì Mây nguyện hi sinh quãng thời gian thanh xuân tươi đẹp nhất để tham gia cách mạng. Chỉ bằng vài chi tiết cũng đủ cho người đọc cảm nhận được tinh thần chiến đấu kiên cường của dì.


    Không chỉ vậy, dì còn là người phụ nữ với tấm lòng thủy chung. Suốt những ngày ở Trường Sơn, trang nhật kí nào dì cũng viết tên người yêu. Tình yêu, nỗi nhớ chú San luôn thường trực trong lòng người phụ nữ. Cứ ngỡ sau khi kết thúc chiến tranh, trở về sẽ được đoàn tụ với người mình yêu nhưng hiện thực lại khiến cho dì đau đớn đến tột cùng. Mặc dù chọn dứt khoát tình cảm với chú San nhưng những ngày sau đó dì vẫn luôn buồn, lòng đầy tâm sự "Dì ngồi rất lâu trước ngọn đèn dầu tù mù [...] Dì ngồi như tượng", "Dì thở dài, nuối tiếc. Đôi mắt nhìn xa xăm". Dường như trong lòng dì Mây vẫn còn những kỉ niệm thân thương với người yêu mà chưa thể xóa nhòa được.


    Ngoài ra, dì Mây còn là người giàu tình yêu thương, biết quan tâm đến những người xung quanh. Những ngày chèo đò giúp ông, dì không lấy tiền của lũ bạn Mai. Còn khi hay tin trạm xá thiếu người, dì đã đồng ý làm y tá. Vào những đêm mưa, dì không quản ngại vất vả đến tận nhà khám chữa bệnh cho mọi người. Bước đi có khó khăn do bị mảnh đạn "phạt một chân", cũng không thể ngăn nổi tấm lòng của dì. Đặc biệt, khi hay tin vợ chú San vượt cạn thiếu tháng, dì Mây không ngần ngại cứu giúp. Ở trong hoàn cảnh trớ trêu đó thật khó xử cho dì. Nhưng vượt qua những cảm xúc cá nhân, với tình yêu thương, tấm lòng của người y sĩ dì đã giúp vợ chú San vượt cạn thành công. Ngoài ra, khi hay tin thím Ba không may qua đời, dì đã nhận chăm sóc thằng Cún. Khép lại câu chuyện là việc dì Mây ru thằng Cún ngủ thật khiến cho người ta cảm động. m thanh vang vọng ấy vừa chất chứa nỗi lòng đầy tâm sự, vừa thể hiện tình yêu dì dành cho đứa nhỏ. Qua đây, ta thấy được dì Mây là người phụ nữ với biết bao phẩm chất tốt đẹp.


    Bằng việc sử dụng điểm nhìn linh hoạt, Sương Nguyệt Minh đã thành công mang đến cho độc giả câu chuyện về số phận con người thời hậu chiến. Truyện ngắn như phơi bày hiện thực đau đớn do chiến tranh để lại. Con người không chỉ phải chịu những mất mát về thể xác mà còn phải gánh chịu những đau đớn về mặt tinh thần. Thế nhưng dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, tình yêu thương giữa người với người vẫn luôn gắn bó. Đó chính là truyền thống, niềm tự hào của dân tộc Việt Nam muôn đời.


    Câu chuyện xúc động mà Sương Nguyệt Minh mang đến cho người đọc sẽ còn nguyên những giá trị tốt đẹp ở bất cứ thời đại nào. Nhắc nhở mỗi người cần trân trọng, biết ơn sự hi sinh của thế hệ cha ông đi trước cho chúng ta có cuộc sống như ngày hôm nay.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  3. Sương Nguyệt Minh là một nhà văn quân đội, đến với sự nghiệp văn chương khá muộn. Tiêu biểu cho sáng tác của ông phải kể đến truyện "Người ở bến sông Châu". Tác phẩm đã tái hiện chân thực cuộc sống và số phận con người hậu chiến tranh, đồng thời ngợi ca vẻ đẹp của nhân vật dì Mây - một người phụ nữ thủy chung, nhân hậu.


    Cứ tưởng rằng sau chiến tranh, con người sẽ được hạnh phúc trọn vẹn nhất. Thế nhưng, sau khi được hưởng tự do, vẫn có những nỗi đau đớn về thể xác và cả tinh thần hiện hữu trong cuộc sống. Câu chuyện về cuộc đời và số phận của dì Mây đã cho người đọc có cái nhìn sâu sắc về con người thời hậu chiến.

    Chiến tranh đã cướp đi tuổi trẻ, thanh xuân tươi đẹp của dì Mây. Trước khi tham gia cách mạng, dì có mái tóc đen, mượt, nước da trắng hồng. Dì rất xinh đẹp khiến cho nhiều chàng trai để ý. Nhưng sau khi cuộc chiến kết thúc, dì trở về, tóc dì xơ, rụng nhiều. Thậm chí còn bước đi khó khăn do mảnh đạn "phạt một chân". Chiến tranh khốc liệt không chỉ cướp đi tuổi trẻ, sắc đẹp mà đau đớn hơn còn cướp đi cả tình yêu của dì. Ngày trở về, cũng là lúc chú San - người yêu dì đi lấy vợ. Mặc dù còn yêu nhưng dì vẫn dứt khoát từ chối "Thôi! Thôi! Lỡ rồi! Đằng nào cũng chỉ một người đàn bà khổ". Câu nói đó chất chứa bao nhiêu nỗi lòng đau đớn, xót xa, tủi cực cho chính số phận mình của dì.


    Ở dì Mây, ta thấy ánh lên nghị lực sống phi thường. Bước ra khỏi cuộc chiến, với những đau thương, mất mát cả về thể xác và tinh thần nhưng dì chưa bao giờ bi quan với cuộc đời. Đặc biệt dì luôn cố gắng sống có ý nghĩa, mang lại hạnh phúc cho mọi người. Dù bị đạn phạt mất một bên chân nhưng hàng ngày vẫn giúp ông chèo đò, khám chữa bệnh cho người dân.


    Không chỉ vậy, dì Mây còn là người phụ nữ thủy chung son sắt. Những ngày ở Trường Sơn, trang nhật kí nào dì cũng viết tên chú San. Điều đó như chất chứa bao nỗi nhớ nhung, yêu thương của người con gái khi phải xa người yêu. Với dì Mây, hình ảnh người yêu luôn thường trực trong tâm trí, là động lực giúp dì cố gắng hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu. Khi biết tin người yêu đi lấy vợ, dì ngỡ ngàng, đau đớn vô cùng. Tuy vậy, khi chú San muốn nối lại tình xưa thì dì dứt khoát từ chối "Không!", "Dì bật dậy, chống nạng gỗ cộc cộc đi vào sân". Không phải dì không còn tình cảm với chú San, mà bởi vì dì đang nhận phần thiệt thòi về mình. Dì nguyện hi sinh hạnh phúc cá nhân để người mình yêu được hạnh phúc.


    Không chỉ thủy chung, dì còn có tấm lòng yêu thương với tất cả mọi người. Những ngày chèo đò giúp ông, dì không bao giờ lấy tiền của lũ trẻ vì thương chúng đi học vất vả. Đặc biệt khi hay tin trạm xá thiếu người, dì đã đồng ý giúp đỡ. Những đêm mưa, đường đi khó khăn vô cùng dì vẫn đến tận nhà cứu chữa cho mọi người. Điều đáng cảm phục ở đây đó là người phụ nữ ấy bị mất một bên chân. Thế nhưng, dì luôn đặt lợi ích của mọi người lên trên mà quên đi nỗi đau của chính mình. Ngay cả khi biết tin vợ chú San vượt cạn thiếu tháng đang nguy hiểm. Không nghĩ đến lời nói của thím Ba, dì vẫn cố gắng giúp cho cô Thanh vượt cạn. Khi thím Ba không may qua đời, dì đã đón thằng Cún bằng tất cả yêu thương về nuôi như con đẻ của mình. Thế mới thấy tấm lòng nhân hậu của dì thật rộng lớn.


    Bằng bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật sống động, tác giả đã mang đến cho người đọc câu chuyện ý nghĩa. Bước ra từ chiến tranh khốc liệt, mang trong mình những nỗi đau không thể xóa mờ, nhưng họ vẫn luôn ánh lên những phẩm chất cao đẹp. Tác phẩm chính là lời nhắc nhở mỗi người cần biết ơn, trân trọng đối với những thế hệ đi trước.


    Truyện ngắn "Người ở bến sông Châu" giúp người đọc hiểu hơn về cuộc đời con người thời hậu chiến. Vẻ đẹp của dì Mây cũng chính là vẻ đẹp chung của người phụ nữ Việt Nam muôn đời. Qua tác phẩm, ta thấy thêm yêu, thêm trân trọng cuộc sống hòa bình như ngày hôm nay.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  4. Chiến tranh xảy ra giúp cho dân tộc ta có một nền độc lập, hòa bình như ngày hôm nay cũng để lại rất nhiều hệ lụy, đau thương, chia rẽ với số phận con người. Câu chuyện “Người ở bến sông Châu” của tác giả Sương Nguyệt Minh nói về nỗi đau của người phụ nữ thời kì chiến tranh kết thúc, mất đi đôi chân, mất đi bạn đời và đồng đội, đó chính là cô ý tá Mây dũng cảm, nhân hậu.


    Bên cạnh đó cũng nói lên dấu vết bi thương lên số phận của mỗi con người. Mở đầu câu chuyện là cảnh dì Mây khoác ba lô về Làng với một chân bị mất khi gia đình đã nhận được giấy báo tử của cô. Ngày cô trở về cũng chính là ngày chú San, người tình năm nao của cô đi lấy vợ. Anh xin cô nối lại tình xưa vì anh tưởng cô đã hi sinh trên chiến trường nên mới đi lấy vợ nhưng Mây không đồng ý vì cô thương cho số phận của mình, chiến tranh đã lấy đi tuổi trẻ, nhân sắc, còn nhẫn tâm lấy đi cả tình yêu của cuộc đời cô.

    Những ngày sau đó, trái ngược với niềm vui vô bờ bến của ra đình và mọi người khi Mây trở về, tâm trạng của cô lúc nào cũng nghèn nghẹn. Khi vợ chú San đẻ cạn nước ối, chính dì Mây đã là người đỡ đẻ, xong xuôi mọi thứ Mây gục ngã xuống bàn khóc nức nở. Cô không chấp nhận lời đề nghị sẽ bù đắp cho cô suốt quãng đời còn lại của trinh sát Quang mà cô gặp trên chiến trường đã tìm về tận quê của cô. Cô chọn chăm sóc cho con của thằng Cún vì thím Ba mẹ của nó vì đun te vướng bom bi nên qua đời.


    Với bút pháp miêu tả tài tình cùng cách xây dựng cốt chuyện thú vị, tác giả để lại ấn tượng mạnh cho người đọc thấu hiểu được vết thương lòng của người con gái thời chinh chiến xoay quanh cuộc đời của dì Mây cũng như hiện thực về làng quê, từ đó nói lên nỗi niềm cảm thông với người phụ nữ như dì Mây hi sinh tuổi trẻ để bảo vệ tổ quốc và tinh thần đoàn kết gắn bó, yêu nước, yêu dân tộc giữa người với người.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  5. Qua tình truyện ngắn “Người ở bến sông Châu” của tác giả Sương Nguyệt Minh ta thấy được hình tượng về con người và thảm họa con người sau cuộc chiến tranh được chuyển tải bằng thứ ngôn ngữ của trái tim bị rung động thật sự. Bị cuốn hút bởi một thực tế, một hiện thực không thể tưởng tượng, không thể hư cấu hơn, tự nó đã làm nên giá trị tư tưởng của tác phẩm.


    Hậu quả của nó để lại vô cùng nặng nề, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng bởi khói lửa của bom đạn, của các chất hóa học do con người chế tạo nhằm phục vụ cuộc chiến. Các công trình kiến trúc được coi là văn minh nhân loại, những cánh rừng bất tận không còn màu xanh mà chỉ thấy khói lửa…


    Chiến tranh cũng khiến cho nền kinh tế trở nên kiệt quệ. Bóc lột giữa con người với con người ngày càng gia tăng, chênh lệch giàu nghèo càng rõ ràng. Cuộc sống của người dân thường xuyên rơi vào đói nghèo, trình độ văn hóa thấp,… Văn học hé mở khát vọng bức thiết, đòi hỏi quan tâm đến mỗi số phận cá nhân. Mối quan tâm cộng đồng đã nhường chỗ cho số phận cá nhân.


    Cái tôi trữ tình tìm thấy tiếng nói khác đầy ắp tâm trạng, nỗi trăn trở, sự day dứt, lo âu đầy trách nhiệm về chiến tranh vệ quốc, về hy sinh, mất mát, về nhu cầu, khát vọng của con người. Đó chính là cơ sở để thức tỉnh ý thức cá nhân và tinh thần nhân bản sẽ trở thành nền tảng tư tưởng và cảm hứng chủ đạo bao trùm của nền văn học sau năm 1975.


    Sương Nguyệt Minh khai thác những sự kiện, con người trong các cuộc chiến càng không dừng lại ở cái nhìn xuôi chiều, phiến diện. Với chỗ đứng của một người đã có độ lùi khoảng cách thời gian với “một thời đã qua”, Sương Nguyệt Minh nhìn chiến tranh và những người đi ra từ chiến tranh với một cái nhìn sâu hơn, đa chiều hơn.


    Yêu cầu tái hiện lịch sử giờ chỉ là một phần, nhà văn còn khám phá được thế giới tâm lý con người, số phận con người trong và sau cuộc chiến. Sương Nguyệt Minh biết đặt cuộc chiến trong tương quan với cuộc sống hôm nay, từ đó có những đóng góp không nhỏ vào mảng đề tài viết về chiến tranh.


    Sự đan xen cảm hứng ở những tác phẩm viết về chiến tranh tạo ra những mảng màu đa dạng trong tác phẩm của Sương Nguyệt Minh. Đọc những câu chuyện của anh viết về thời kỳ khói lửa, người đọc vừa được cảm nhận vẻ đẹp lung linh của những mối tình thời chiến, vừa thấy cái khốc liệt mà bom đạn gây ra cũng như những đổi thay đau lòng khi con người bước vào cuộc sống hòa bình.


    Nhà văn Aimatov đã từng nhận định rằng: “Một tác phẩm chân chính không bao giờ kết thúc ở trang cuối cùng”. Bởi lẽ khi trang sách đóng lại, tác phẩm mới thực sự đang sống, sống với những trăn trở và tình cảm của người đọc.


    Qua tác phẩm “Người ở bến sông Châu” của nhà văn Sương Nguyệt Minh bản thân chúng ta đã có thêm một bài học. Những hậu quả mà chiến tranh để lại là vô cùng khủng khiếp, cho nên con người chúng ta sống và phải đấu tranh vì hoà bình, vì tự do và vì hạnh phúc. Hơn thế chúng ta phải biết ơn những chiến sĩ, anh hùng đã nằm xuống để đổi lấy hoà bình ngày hôm nay, như câu nói:

    “Tự do, hòa bình không phải dễ, có được bây giờ nhất định phải giữ”

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  6. Cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc ta đã là ngọn lửa hun đúc nên biết bao thế hệ anh hùng, đồng thời cũng trở thành một trong những đề tài văn học, nghệ thuật hấp dẫn và nhiều cảm hứng nhất của giới văn nghệ sĩ lúc bấy giờ. Nhân vật Dì Mây trong truyện ngắn “Người ở bến sông Châu” của nhà văn Sương Nguyệt Minh cũng là một trong những nhân vật bộc lộ được bản chất người lính đã trải qua cuộc chiến tranh, thấy được sự hy sinh mất mát, và nỗi đau khôn cùng của người phụ nữ Việt Nam. Câu chuyện xoay quanh cuộc đời của một người phụ nữ đẹp nhưng lại có số phận đau thương, vây hãm cả đời. Dì đại diện cho một thế hệ thanh niên đã dâng hiến quãng đời thanh xuân tươi đẹp nhất cho cách mạng. Tuổi trẻ của dì là những ngày tháng lăn lộn trên khắp các nẻo đường Trường Sơn.


    Dì Mây có một mối tình đằm thắm, trong sáng với chú San, tuy nhiên lại rơi vào nghịch cảnh éo le: ngày cô trở về quê cũng là ngày người yêu – San đi lấy vợ vì tưởng cô hy sinh. Ngay đêm tân hôn, biết tin Mây còn sống quay về, San đã tìm gặp Mây. Anh xin cô được bỏ vợ để cả hai làm lại từ đầu. Mây khóc, từ chối vì cho rằng: “Một người phụ nữ đau khổ và lỡ dở đã là quá đủ”. Ngoài nỗi buồn mất đi người mình yêu, dì Mây còn phải chịu những hậu quả do chiến tranh để lại. Từ một người con gái xinh đẹp trở thành một người tàn tật, vô cùng thương xót “Dì Mây bước tập tễnh, tóc Dì Mây rụng nhiều, xơ và thưa, dì có chân giả, chống nạng gỗ”.


    Tuy nhiên, không vì điều đó mà dì lại cảm thấy tủi thẹn, dì luôn luôn cảm thấy tự hào, vì đã dâng hiến quãng đời thanh xuân tươi đẹp cho cách mạng: “Dì Mây chắn cửa hầm che chở cho thương binh. Bom nổ, người lính công binh sốt rét tóc rụng trọc đầu vẫn lành lặn...” Bởi vậy, cuộc sống của dì Mây khi trở về quê hương cũng có sự thay đổi thay. Ai nấy trong gia đình đều cảm thấy thương dì, cuộc đời của dì thật đau xót. Những đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng dì Mây đã cho thấy một hình ảnh người phụ nữ kiên cường, đầy nỗi bất hạnh vì chiến tranh. Cuộc chiến đã cướp đi tất cả: tuổi trẻ, tình yêu, hạnh phúc và mài mòn dần những gì còn sót lại của dì khi trở về sau chiến tranh.


    Càng éo le hơn khi truyện đẩy nhân vật dì Mây vào những tình huống vô cùng trớ trêu và đau khổ. Khi dì đứng trước sự lựa chọn về tinh yêu của mình, dì đã cam đảm đối mặt với nó, mặc dù buồn, vẫn còn thương chú San nhiều nhưng dì đã cương quyết dứt khoát với chú “Thôi! Thôi! Lỡ rồi! Đằng nào cũng chỉ một người đàn bà khổ. Anh về đi!", “Sự thế đã thế, cố mà sống với nhau cho vuông tròn”. Chưa dừng lại ở đó, tác giả lại một lần nữa đẩy nhân vật vào tình huống mà khiến dì phải đấu tranh lí trí và cảm xúc của bản thân. Đó là khi vợ chú San – cô Thanh vượt cạn thiếu tháng và dì Mây đã cố gắng hết sức đỡ đẻ cho cô mặc kệ lời thím Ba can ngăn. Chi tiết dì khóc ngay sau khi đỡ đẻ thành công cho vợ chú San, đã để lại cho người đọc nhiều xúc động.


    Giá như không đi bộ đội, nếu không có chiến tranh, thì cũng không bị chiến tranh làm xa cách dì Mây cũng có thể hạnh phúc bên chú San. Qua đây, em thấy được hình tượng của một người phụ nữ dưới thời chiến, đó là một người xinh đẹp, gan dạ và đầy lòng nhân ái, vị tha. Người phụ nữ mặc dù trải qua những khó khăn, thử thách ở những tình huống nghịch cảnh, đau khổ nhưng vẫn quyết tâm đối mặt với nó, với số phẩn của bản thân.


    Nhà văn Sương Nguyệt Minh đã vô cùng thành công trong việc xây dựng nhân vật dì Mây, bởi nhờ có ông, mà chúng ta thấy được những góc khuất của chiến tranh, những câu chuyện buồn dưới thời chiến.

    Chưa bao giờ, trong văn học Việt Nam xuất hiện người phụ nữ trở về sau chiến tranh lại bi thương đến vậy. Từ đó, ta mới càng cảm thông hơn với những số phận của họ và thật biết ơn với những công lao của họ để chúng ta có được cuộc sống như ngày hôm nay.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  7. Chiến tranh qua đi, để lại biết bao mất mát tổn thương. Đó không chỉ là những nỗi đau về vật chất mà còn là nỗi đau về tinh thần. Như vết cứa rất sâu vào trái tim của con người, đặc biệt là những người phụ nữ. Truyện ngắn Người ở bến sông Châu là một truyện ngắn như thế, thấm đượm giá trị nhân văn và tình yêu thương, ca ngợi con người mà đặc biệt là những người phụ nữ.


    Câu truyện xoay quanh về nhân vật dì Mây. Cô gái trẻ trung xinh đẹp, tóc dì đen dài, óng mượt “Dì đẹp gái nhất làng, có khối trai làng ra bến sông ngó trộm dì mày tắm”. Trước khi đi xung phong dì có mối tình đẹp đẽ, trong trẻo với chú San.


    Nhưng phải chia tay nhau vì chú San đi học nghề ở nước ngoài. Còn dì thì xung phong làm cô y sĩ Trường Sơn. Hoàn cảnh trớ trêu đã đẩy chú dì vào cảnh người mỗi ngả chia li cách biệt. Có thể thấy chiến tranh, bom đạn thật tàn nhẫn khi đã đẩy họ vào hoàn cảnh tách biệt.


    Khi từ chiến trường bom đạn chờ về. Dì Mây bị đạn phạt vào chân, phải đi tập tễnh, bằng chân giả. Tuy nhiên nỗi đau thể chất đó không thấm vào đâu khi ngày dì trở về cũng là ngày dì phải chứng kiến người đàn ông mình yêu thương, nghĩ tới nhiều nhất, người đàn ông mà dì viết tên hằng ngày vào cuốn nhật kí ở Trường Sơn đã đi lấy người phụ nữ khác.


    Thử hỏi làm sao dì có thể chịu đựng được cú sốc tinh thần dã man tới vậy, lòng người con gái giờ đây là sự hụt hẫng, bàng hoàng, trớ trêu và đầy tuyệt vọng. Nhưng trong hoàn cảnh tuyệt vọng đó ta vẫn thấy được sự kiên cường, mạnh mẽ của dì Mây. Thái độ của dì rất cương quyết, thể hiện sự bản lĩnh kiên cường của người phụ nữ. Dì nhất quyết không đồng ý trước lời đề nghị “Mây, chúng ta sẽ làm lại” của chú San. Trước sự thể đã rồi dì nhận phần thiệt thòi về mình, dì chỉ muốn một người đàn bà khổ. Có thể thấy dù đau đớn, tuyệt vọng nhưng dì vẫn nén vào trong, dì là đại diện cho phẩm chất kiên cường của những người phụ nữ bước ra từ chiến tranh và bom đạn.


    Ở dì Mây còn nổi bật lên phẩm chất tốt bụng, vị tha và bao dung. Khi dì Mây nghe tin cô Thanh vợ chú San khó sinh cô Thanh đẻ thiếu tháng lại tràng hoa quấn cổ dì đã ngay lập tức giúp đỡ không hề suy nghĩa, đắn đo điều gì. Mặc dù ở vào hoàn cảnh của dì việc làm đó chẳng hề dễ dàng, nhưng dì vẫn không chút e ngại, chần chừ, suy nghĩ gì mà lập tức tới giúp đỡ cô Thanh vượt qua cơn nguy hiểm, để mẹ tròn con vuông.


    Có thể thấy dì Mây hiện lên với rất nhiều những phẩm chất cao thượng, tốt đẹp, dì đại diện cho những người con gái Việt Nam sẵn sàng hi sinh thầm lặng, đánh đổi cả thanh xuân tuổi trẻ và hạnh phúc của cá nhân mình vì những điều lớn lao khác.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  8. Nhà phê bình văn học nổi tiếng Belinski từng tâm đắc: “Cái đẹp là điều kiện không thể thiếu được của nghệ thuật, nếu thiếu cái đẹp thì không có và không thể có nghệ thuật, đó là một định lý”. Âm thanh vang lên từ chiếc piano với những phím đàn chỉ với hai màu đen và trắng tưởng chừng như khô khan, rệu rã.

    Nhưng người nghệ sĩ đã tìm ra cái hay, cái đẹp của những phím đàn mà tạo nên những bản nhạc mang âm hưởng tuyệt vời. Văn học cũng vậy, phản ánh hiện thực và đời sống con người nghe như đơn giản nhưng thật ra là phức tạp và đa chiều vô cùng. Trên hành trình khám phá và sáng tạo nghệ thuật, sứ mệnh của mỗi nhà văn là phát hiện được cái đẹp ở bề sâu cuộc sống.


    Nhà văn Sương Nguyệt Minh thực sự đã hoàn thành sứ mệnh ấy với hình ảnh nhân vật dì Mây-một người phụ nữ giàu đức hi sinh nhưng không cam chịu và nhu nhược trong truyện ngắn “Người ở bến sông Châu”

    Nhắc đến nhà văn Sương Nguyệt Minh người ta nhớ ngay đến hình ảnh một người lính với tính cách vừa hổ lửa vừa hồn nhiên, lại có khi lạnh lùng, phớt đời.


    Ta sẽ thấy được trong các sáng tác của ông, hình ảnh làng quê với những gốc nhìn hiện thực, vừa lãng mạn đan cài, soi chiếu vào nhau chính vì vậy cảm hứng mà người đọc nhận thấy trong các sáng tác của ông vừa nồng nàn, vừa thâm trầm, nét duy mỹ và lạng mạn để hướng chiều sâu tâm hồn và kí ức. Điều đó góp phần làm nên phong cách lịch lãm, tài hoa, tinh tế trên mỗi trang văn của tác giả.


    “Nếu như có thể nếm được, thì các truyện ngắn của Sương Nguyệt Minh đều có vị ngọt và cay. Đó là vị ngọt của phong cảnh làng quê của trăng nước, tình người, vị cay xót của số phận con người” (Nguyễn Hữu Đại). Sương Nguyệt Minh hiện nay được đánh giá là một trong những nhà văn quân đội tiêu biểu. Chính vì ông từng là một người lính cho nên ông viết văn bằng sự trải nghiệm và thể nghiệm của một con người đi ra từ cuộc chiến. Với ông, chiến tranh không chỉ là sự đổ máu hi sinh. Mà chiến tranh còn gắn với bi kịch, nỗi đau dai dẳng, âm ỉ, lặng thầm nhưng không kém phần dữ dội ở từng số phận, từng cuộc đời.

    Cảm xúc của Sương Nguyệt Minh được dồn nén chân thực, xúc động qua những mảnh đời, những thân phận éo le, ngang trái, những tình cảm trớ trêu , nghiệt ngã sau trận chiến.


    Nhà văn chú ý khai thác thân phận, trách nhiệm, tình yêu, bi kịch thời hậu chiến… thông qua những trang viết đầy ám ảnh và lôi cuốn, gửi đến độc giả những bức thông điệp thấm thía, sâu sắc về bài ca sức sống mãnh liệt của con người, về lòng nhân ái, niềm tin yêu và khát vọng sống trong an bình.


    Xuất hiện trên văn đàn vào những năm đầu thập niên chín mươi của thế kỉ XX, cho đến nay với niềm đam mê và tinh thần lao động nghệ thuật nghiêm túc Sương Nguyệt Minh đã cho ra đời sáu tập truyện ngắn cùng với đó là rất nhiều bài bút kí, tuỳ bút.


    Gây ấn tượng mạnh mẽ trong lòng người đọc nhất có lẽ vẫn là cô gái tên Mây trong truyện ngắn “Người ở bến sông Châu” được nhà văn sáng tác vào năm 1997. Câu truyện là những khoảng đời trớ trêu bất hạnh mà những người phụ nữ Việt Nam phải gánh chịu sau năm 1975, đi qua những năm tháng chiến tranh gian khổ, chịu đựng vết thương từ chiến trường, dì Mây-một nữ chiến sĩ đường Trường Sơn nhận thêm những thương tổn trong cuộc sống mới. Mây sống lặng lẽ trong nỗi cô đơn trên chính bến đò quê hương.


    “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước

    Mà lòng phơi phới dậy tương lai”

    Đó là tinh thần nhiệt huyết của những năm kháng chiến chống Mĩ của dân tộc ta, hoà mình vào tinh thần ấy dì Mây-cô gái đại diện cho một thế hệ thanh niên đã dâng hiến quãng đời thanh xuân tươi đẹp nhất cho cách mạng. Tuổi trẻ của cô là những ngày tháng lăn lộn trên khắp các nẻo đường Trường Sơn. Hình ảnh của Mây làm ta nhớ đến cô “hoa hậu” trong lòng bom đạn - Trương Định cũng dành cả thanh xuân mình cho chiến trường, cống hiến cho đất nước.


    Dì Mây là người duy nhất sống sót của tiểu đội quân y. Trở về từ trong bom đạn, về nhà khi gia đình đã nhận được tin báo tử của cô, trong tiềm thức của gia đình và người yêu cô đã đi dẫn vào quên lãng. Dì Mây về làng vào đúng ngày mà chú San-người yêu cô kết hôn vì tưởng rằng cô đã hi sinh trên chiến trường khốc liệt.


    Ngày cô về, quê hương như rực màu đỏ, phải chăng là ăn mừng ngày cô trở về? Hoặc có thể là chúc mừng cho đôi uyên ương hôm ấy. Dù là thế nào đi nữa ngày hôm ấy trong mắt Mây “nước sông Châu đỏ quạch”, “màu hoàng hôn đỏ ối”. Trong cái màu đỏ ấy có một đám rước dâu và có một cô gái lỡ đò. Lần lỡ đò ấy như lỡ cả một đời hạnh phúc của dì Mây, chú San đã cưới cô Thanh là giáo viên ở xóm bãi bên kia sông và đoạn nhân duyên giữa dì Mây và chú San đến đây cũng đã đi về hai ngả.


    Dì Mây về nhà, cỗ cưới vẫn chưa tàn nhưng không hiểu sao lại nghe thấy tiếng quát tắt nhạc bên nhà Chú San. Sau vài câu thì thầm của thím Ba, chú san bỗng dưng suy sụp mà “ngồi phịch xuống ghế ôm đầu”. Tiếng ồn ào khi trước không còn mà chỉ còn lại tiếng cất dọn bát đĩa. Một lúc sau, chú San rẽ lối hàng râm bụt đi sang. Trong cái không khí ngượng ngùng, gượng gạo chẳng ai nói lên lời, Bố mẹ Mai lờ đi, ông cũng vậy. Chú San luôn nhận lỗi về phía mình, và cùng dì Mây nhắc về những kỉ niệm cũ. Khi đang chìm trong hồi ức ngọt ngào thì tiếng gầu nước Mai kéo đập vào giếng đã đánh thức hai người.


    Chú San xin dì Mây để hai đứa làm lại từ đầu, câu nói khiến bầu không khí lúc ấy trở nên ngột ngạt, vợ chú San cũng ở bên kia hàng râm bụt cũng đi lại, dứt lá râm bụt. Với tấm lòng cao thượng, hơn hết cũng là phụ nữ dì Mây thấu hiểu nỗi thống khổ khi bị tổn thương, là người tổn thương dì Mây không muốn làm tổn thương thêm người khác và lời từ chối cất lên: “Thôi! thôi! Lỡ rồi! Đằng nào cũng chỉ một người đàn bà khổ! Anh về đi!” Trong mối quan hệ rối như bòng bong ấy sau tất cả đều sẽ có một người phụ nữ đau khổ, dì đã chịu đủ những đau đớn ngoài chiến trường cùng với đức hi sinh cao cả dì Mây đã để cho mình đau và để cho cô Thanh hạnh phúc. Trước sự hi sinh ấy cô Thanh cũng nức nở mà biết ơn dì. Trong phân đoạn này bút pháp tả cảnh và diễn biến tâm lí các nhân vật của tác giả trong truyện ngắn Người ở bến sông Châu đã cho ta thấy được niềm say mê khẳng định cái tốt, cái tích cực; phủ nhận những điều xấu xa giả dối sẽ đem lại cho tác phẩm một luồng sinh khí, biến những tư tưởng khô khan thành các hình tượng sinh động, tạo ra một bầu khí quyển nóng bỏng, biến tác phẩm trở thành một sợi dây truyền tình cảm của tác giả đến người tiếp nhận. Sự nhiệt thành trong việc bộc lộ cảm xúc của nhà văn, nhà thơ sẽ khiến “cảm hứng chủ đạo của tác phẩm chi phối sự thống nhất cảm xúc của hình tượng, chi phối hệ thống nghệ thuật biểu cảm của tác phẩm”. Đặc biệt trong thể loại truyện ngắn – một thể loại có dung lượng khiêm tốn, thường lấy cái “khoảnh khắc”, cái “lát cắt” cuộc sống làm căn cốt – thì vai trò của cảm hứng nghệ thuật càng quan trọng. Truyện càng ngắn thì sự dồn nén của tình tiết và sự mãnh liệt trong tình cảm càng đòi hỏi cao. Những xúc cảm tâm lý thường bộc lộ một cách cao độ hơn, thể hiện nội dung tư tưởng một cách nổi bật, tập trung vào một vấn đề nhân sinh trọng tâm chứ không dàn trải như ở thể loại tiểu thuyết.


    Cuộc sống về sau của dì cũng thật đau khổ, từ ngày hôm ấy, cuộc sống của vợ chồng chú San, Thanh và dì ở nhà bên, cách nhau có hàng rào tre, diễn ra hết sức trớ trêu và đau khổ. Dì quyết ra bến sông ở, nhưng từ ngày chuyển ra đó dì lúc nào cũng buồn buồn, cứ thẫn tha thẫn thờ, lúc ngắm trời nhìn nước, lúc lụi cụi nấu cơm.


    Cuộc sống quẩn quanh ấy thật giống với cái khung cảnh ở phố huyện Cẩm Giàng trong “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam. Nhớ trước kia dì là một cô gái trẻ trung, yêu đời, tóc dì dài đến gót chân, xinh đẹp nhất làng nhưng đã dũng cảm xung phong ra chiến trường để rồi khi trở về tóc dì rụng đi nhiều và xơ, cô trở về trong sự lãng quên của gia đình, của người thân và cả của người yêu.


    Cuộc sống sau đó của dì Mây hết sức bình bị với cái chân lành còn lại, dì đưa đám bạn của Mai qua sông đi học và đặc biết gì trở về làm một nữ quân y khi xây trạm xá mới. Nhà văn Pautopxki từng nói: “Chi tiết làm nên bụi vàng của tác phẩm” thật vây, từ những chi tiết được tác giả chắt lọc và xây dựng lên tình huống truyện giúp bộc lộ tính cách nhân vật dì Mây một cách rõ nét.


    Tác giả đã đặt dì Mây vào một tình huống thực sự đặc biệt khi vợ chú San vượt cạn thiếu tháng, thai ngôi ngược lại tràng hoa quấn cổ. Thím Ba đã loay hoay đỡ mãi nhưng không được, cô Thanh cũng đuối dần, nguy cơ tử vong khá cao. Trong cái đêm mưa gió bão bùng, đường lên huyện quá xa, đò ngang cách trở dì đã khoác áo mưa đến và đỡ đẻ thành công cho cô Thanh không màng đến lời thím Ba nói.


    Trong trường hợp này tác giả đã xây dựng tình huống rất hay để làm nổi bật phẩm chất và nhân cách của nhân vật dì Mây. Bởi, chú San là người đã phản bội tình cảm của dì Mây nhưng dì không chút thù oán, không vì chuyện cá nhân mà ngó lơ tình thế nguy hiểm của vợ chồng chú. Từ đó, người đọc cảm nhận rõ dì Mây luôn quan tâm đến người khác, bao dung, vị tha, có trách nhiệm trong công việc của mình. Cũng chính từ tình huống ấy đã khiến một cô gái mạnh mẽ như dì phải trào nước mắt. Sau khi đỡ đẻ thành công cho cô Thanh – vợ chú San, dì Mây đã gục luôn xuống bàn đỡ đẻ và khóc tức tưởi. Dì Mây khóc như vậy bởi lẽ người được hưởng hạnh phúc ấy đúng ra là dì. Nhưng giờ đây, khi dì trở về, chú San đã lấy vợ. Đó cũng là lúc những hi vọng, chờ mong, niềm ao ước về một cuộc sống hạnh phúc cùng nhau đã bị dập tắt.


    Dì Mây khóc cho chính số phận mình, có lẽ giây phút đó, dì đã quá tủi thân và bởi những nỗi đau mà dì chịu đựng, dồn nén trong lòng quá lâu, chỉ trực chờ một khoảnh khắc nào đó, khoảnh khắc mà người con gái ấy không thể gồng mình lên chống đỡ được nữa thì giọt nước mắt ấy sẽ tuôn rơi.


    Chiến tranh đã đi qua nhưng đã lấy đi rất nhiều thứ của nhân dân và cũng để lại biết bao hệ luỵ không đáng có. Bến sông Châu vẫn đầy bom bi chưa nổ và thím Ba vì đun te vướng bom bi nên đã qua đời, thằng Cún đã mất mẹ. Khi ấy có chú lính trinh sát Quang mà dì Mây gặp ở chiến trường tìm về tận quê. Dù dì trốn chạy và lảng tránh nhưng chú quyết định ở lại bến sông Châu nguyện chăm sóc và bù đắp cho dì suốt quãng đời còn lại.


    Nhưng dì lại không chấp nhận mà chọn chăm sóc con của thím Ba Dì nuôi thằng cún và mỗi đêm tiếng ru nó ngủ của dì lại vang lên trên bến sông Châu. Tiếng ru của dì hòa với cảnh đêm của miền sông nước và sự cảm nhận lắng nghe của những chú lính làm cầu. Sự thay đổi trong tiếng ru của dì Mây dường như cũng là sự thay đổi trong tâm trạng.


    Có lẽ, tâm trạng lúc đầu của dì Mây vẫn còn chất chứa sự tủi thân, nỗi buồn từ những chuyện chẳng vui nhưng dần dần, dì đã chấp nhận được sự thật và cùng chung sống với nó. Dì Mây không giống như những hình ảnh người phụ nữ xưa mà mang theo hơi thở hiện đại, cô là người luôn hy sinh và sống cho người khác nhưng tuyệt đối không phải là một người cam chịu, nhu nhược.


    Chiến tranh đã lấy đi tuổi trẻ, nhan sắc và cả tình yêu của dì Mây. Vết thương trên người mỗi khi trái gió là lại đau nhức. Dì trở về chỉ còn một mình cô bên chiếc nạn gỗ, bên con búp bê không biết nói. Nếu như trước kia dì năng động, hoạt bát, xinh đẹp phơi phới sắc xuân thì giờ đây cô lại mang trong mình sự buồn tẻ, đượm buồn trong thân thể người phụ nữ.


    Dưới ngòi bút của tác giả cốt truyện m tuy giản dị nhưng lại gây ấn tượng mạnh đến độc giả, tạo cho người đọc thấu hiểu được từng lớp văn chương. Từ không gian đến thời gian chỉ xoay quanh nhân vật Dì Mây nhưng được lồng ghép vào xen kẽ rất đặc biệt, nói về làng quê với cái nhìn hiện thực, vừa lãng mạn đan xen vào nhau và vốn am hiểu, cảm thông với người phụ nữ đã làm rung động tâm hồn độc giả.


    Dì Mây trong truyện ngắn đã cho chúng ta thấy được những thứ được và mất sau chiến tranh, những góc khuất trong đời sống thường ngày. Với tâm lòng am hiểu, thông cảm sâu sắc đến thân phận người phụ nữ qua những chi tiết đã phần nào được phản ánh tích cực.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ




xoivotv | 90phut | mitom tv1 | xem lại bóng đá | banthang | Xoilac tv | xem lại bóng đá | thevang tv | bong da truc tiep | bongdatructuyen | xemlai |