Top 4 Bài văn phân tích "Lời tiễn biệt" trích "Tiễn dặn người yêu" hay nhất
Từ lâu đề tài về tình yêu đôi lứa đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều tác giả sáng tác được nên nhiều tác phẩm hay. Tiễn dặn người yêu cũng là một ... xem thêm...trong số đó, tác phẩm nổi bật về phong cách sáng tác truyện thơ kết hợp rất nổi tiếng của dân tộc Thái. Những trắc trở trong tình yêu, trong hôn nhân đôi khi như thử thách nằm trên con đường dài dẫn đến hạnh phúc, mà chính những con người trong cuộc mới cảm nhận hết, đặc biệt tâm trạng từ phía người con trai - vế chủ động trong một cuộc tình mang đầy sâu sắc, da diết, được miêu tả rõ qua đoạn trích lời tiễn dặn. Dưới đây là những bài văn phân tích "Lời tiễn biệt" trích "Tiễn dặn người yêu" hay nhất, mời các bạn đón đọc.
-
Từ lâu đề tài về tình yêu đôi lứa đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều tác giả sáng tác được nên nhiều tác phẩm hay. Tiễn dặn người yêu cũng là một trong số đó, tác phẩm nổi bật về phong cách sáng tác truyện thơ kết hợp rất nổi tiếng của dân tộc Thái. Những trắc trở trong tình yêu, trong hôn nhân đôi khi như thử thách nằm trên con đường dài dẫn đến hạnh phúc, mà chính những con người trong cuộc mới cảm nhận hết, đặc biệt tâm trạng từ phía người con trai - vế chủ động trong một cuộc tình mang đầy sâu sắc, da diết, được miêu tả rõ qua đoạn trích lời tiễn dặn.
Truyện thơ của các dân tộc chính là một câu chuyện dài kể qua lời thơ, phản ánh cho ta hiểu được nhiều phong tục tập quán, cũng như lối suy nghĩ, tình cảm của người đồng bào thiểu số. Tiễn dặn người yêu,được dịch cụ thể thành 1846 câu thơ,rất nổi tiếng, kể lại câu chuyện tinh yêu - hôn nhân qua lời của 2 nhân vật chính, trong câu chuyện có nhiều diễn biến tương ứng như mỗi quãng đường thăng trầm trong tình yêu của họ bao gồm cả những khát vọng hạnh phúc, nỗi đớn đau khi tình yêu bị chia lìa và cuộc đấu tranh kiên trì, quyết liệt của hai người để bảo vệ tình yêu,ta phải đặt mình vào trong tác phẩm một cách chân thành mới mong hiểu được biết cảm thông được với những biểu hiện mong ngóng người yêu ,cử chỉ ân cần, âu yếm và lời thề nguyền son sắt giữ trọn tình yêu của chàng trai , nó nằm tng đoạn trích Lời tiễn dặn, được lược bớt, gói gọn, tiêu biểu cho nội dung trên ở phần đọc thêm, sách giáo khoa ngữ văn lớp 10 tập 1. Đoạn trích này đặc biệt hoàn toàn là lời của chàng trai, cùng tâm trạng đau đớn trên đường tiễn cô gái về nhà chồng, phải chứng kiến cảnh cô bị chính người chồng đánh đập, hình ảnh cô gái hiện lên gián tiếp trong lời nói chân thành của anh.
Khi đọc ngay từ đầu hình ảnh quay chậm miêu tả hị qua lời anh rõ nét, luôn trong trạng thái níu kéo cho thời gian dài ra, cố trì hoãn những bước đi về nhà người chồng mà chị không hề muốn sống chung, mỗi chữ, chân bước đi mà đầu “còn ngoảnh lại” mắt còn “ngoái trông anh”, chân bước càng xa thì lòng càng đau đớn, mỗi cảnh rừng nàng qua đều biểu hiện sự tha thiết nhớ người yêu cũ, muốn gặp.
Em tới rừng ớt ngắt lá ớt ngồi chờ,
Tới rừng cà ngắt lá cà ngồi đợi,
Tới rừng lá ngón ngóng trông.
Các từ ngữ được dùng với độ dày đặc, lặp đi lặp lại như biểu hiện tính đau khổ, nỗi lòng nhớ thương của cô gái, mãi mong người yêu nhưng chẳng thấy anh.
Rồi anh cũng tới, sau bao nỗ lực của cô gái, vì họ hiểu nhau, vì họ như hẹn ước với nhau:
Anh tới nơi, em bẻ lá xanh em ngồi;
Được nhủ đôi câu, anh mới đành lòng quay lại,
Được dặn đôi lời, anh yêu em mới chịu quay đi.
Lúc tiễn đưa này, anh - người đàn ông dân tộc Thái ấy, cử chỉ thân mật, tình cảm tuyệt vời, trước người con gái mình yêu, hoàn cảnh éo le hiện tại, anh cũng như chị, cũng muốn níu kéo thời gian giây phút ngắn ngủi được ở bên chị, Anh đòi hỏi với mong muốn tha thiết phải được dặn chị đôi lời mới chịu quay gót, phải dặn dù chẳng được nói chuyện nhiều như lúc xưa kia nhưng vì anh luôn cảm thấy chi hiểu mình, tin tưởng nhau tuyệt đối như ngày nào nên dù có dặn đôi câu cũng đã yên lòng quay gót đi.
Ngôn ngữ xưng hô trong dân ca Thái và trong tiễn dặn người yêu sao mà ngọt ngào, mở đầu đoạn trích Anh gọi chị là “người đẹp anh yêu”, đến lúc gặp được chị là một câu tự xưng “anh yêu của em” khẳng định tình yêu trong Anh vẫn nồng nàn, thắm thiết.
Phong tục của người Thái cũng lại vang lên đầy tính tình cảm, được nhắc đến trong hoàn cảnh này như sự suy nghĩ sâu xa cho tương lai hai đứa, đến một ngày mà viễn cảnh ấy u ám - là cái ngày một trong hai người chết đi:
Xin hãy cho anh kề vóc mảnh,
Quấn quanh vai ủ lấy hương người,
Cho mai sau lửa xác đượm hơi,
Một lát bên em thay lời tiễn dặn!
Dù nhận thức hoàn cảnh hiện tại không hề chấp nhận, cho phép được hành động thân mật táo bạo của anh với chị, nhưng anh vẫn bất chấp, nhất mực, luôn muốn “kề vóc mảnh” gợi ra được sự mảnh mai, nhưng đầy kiêu sa, đẹp tuyệt của người con gái Thái muốn tìm về cái sự thủy chung đâu có gì là sai, anh suy nghĩ không lấy được nhau, có nghĩa không có ai thân yêu suốt cả cuộc đời nhưng vì có hơi hương da thịt người yêu ngay lúc này, mà khi chết xác sẽ cháy đượm, vong hồn được siêu thoát, không còn là kẻ cô đơn.
Tình cảm của người con trai ấy thật cao cả, đáng quý, không những chỉ yêu mình chị, còn dành cả tình yêu luôn cả đứa con riêng của cô gái. Vì hoàn cảnh éo le, nàng phải chấp nhận tình cảm, cũng như đứa con mà tạo thành bởi một cuộc tình không có cảm xúc, lạnh nhạt với người chồng hiện tại. Anh vẫn bao dung, trân trọng cô, anh nựng đứa con của người yêu như chính đưa con ruột của mình.
Con nhỏ hãy đưa anh ẵm,
Bé xinh hãy đưa anh bồng,
Cho anh bế con dòng, đừng ngượng,
Nựng con rồng, con phượng, đừng buồn.
Tiếng nựng kia dù chân thành nhưng làm sao có thể tránh sự đau lòng, ai oán, khi tình yêu đến mà không được cùng nhau đi đến cuối cuộc đời, không được cùng nhau xây dựng một gia đình hạnh phúc, những đàn con thơ. Vậy nên chàng dã thốt ra lời thề nguyện chan chứa tình cảm, đầy sự quyết tâm về tình yêu sự sắt đá của cả hai người:
“Đôi ta yêu nhau, đợi tới tháng Năm lau nở,
Đợi mùa nước đỏ cá về, Đợi mùa chim tăng ló gọi hè.
Không lấy được nhau mùa hạ, ta sẽ lấy nhau mùa đông,
Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi góa bụa về già’’.
Đây cũng như là ý chính chủ đạo bao bọc của bài thơ, ý thơ hay dào cảm xúc. Có Thời gian cụ thể, bằng cả sự chân thành, tứ thơ bay bổng, lay động mà chân thật, gắn với hai mùa đầu và cuối trong một năm cũng tương tự như là đời người, dù không thể trọn vẹn tình yêu nơi tuổi thanh xuân trẻ trung, nồng nhiệt kia, nhưng tình yêu thì sẽ chẳng bao giờ là muộn để tiếp nối lại, để tạo nên gia đình hạnh phúc của hai người, dù có khi đến tàn phai theo năm tháng họ đều đã về già nhưng sự chờ đợi nhau dù bao nhiêu lâu” tháng năm lau nở”, “nước đỏ cá về”, “chim tăng ló gọi hè”, tình yêu trong sáng ấy không bao giờ bị dập tắt như chính lời thề nguyền ngày nào.
Sự thủy chung son sắt trong tình yêu còn được thể hiện qua đoạn hai những ngày mà chàng trai còn lưu lại ở nhà chồng cô. Là người chứng kiến cảnh người chồng mới đánh đập, hành hạ cô ngã lăn quay bên cối gạo, khi cô trở thành một người khác luôn vì muốn sống trọn với lời thề nguyền cùng chàng, cô đã hóa mình thành một con người sống phản kháng không cam lòng với sự sắp đặt, giả bộ làm những việc để nhà chồng chán ngấy, ghét kinh mình, rồi cô cũng phải lâm vào cái tình cảnh quen thuộc bị đối xử thậm tệ không khác gì người ở cho nhà chồng, chàng trai ấy hiểu hết, đồng cảm, an ủi, chăm sóc cô trong giây phút cô tuyệt vọng nhất.
“Dậy đi em, dậy đi em ơi!
Dậy rũ áo kẻo bọ,
Dậy phủi áo kẻo lấm!
Đầu bù anh chải cho,
Tóc rối đưa anh búi hộ!
Anh chặt tre về đốt gióng đầu,
Chặt tre dày, anh hun gióng giữa,
Lam ống thuốc này em uống khỏi đau.
Anh vực cô dậy không chỉ về thể xác, còn về cả tinh thần, giúp cô có ý chỉ, nghị lực để sống tiếp quãng đường khó khăn này, còn cho nàng hiểu và nhớ rằng dù có chuyện gì xảy ra chàng vẫn luôn bên cạnh ủng hộ, cùng nàng vượt qua mọi chuyện.
“Tơ rối đôi ta cùng gỡ
Tơ vò ta vuốt lại quay guồng”
Quay lại guồng gỗ tốt cán thuôn,
Về với người ta thương thuở cũ."
Đoạn thơ này kế tiếp bằng những hình ảnh bi thương- cái chết nhưng một lần nữa khẳng định lại cái quyết tâm kia, lòng dạ, ý chí của anh và cô đầy sự đồng lòng, sự sống mạnh mẽ vực lại tình yêu, không chấp nhận thực tại:
“Chết ba năm hình còn treo đó;
Chết thành sông, vục nước uống mát lòng,
Chết thành đất, mọc dây trầu xanh thắm,
Chết thành bèo, ta trôi nổi ao chung,
Chết thành muôi, ta múc xuống cùng bát,
Chết thành hồn, chung một mái, song song."
Cái sự trân trọng tình yêu chính là cái kết đẹp nhất cho bức tranh này, bằng sự sử dụng phương pháp so sánh dù đơn giản nhưng có sự chọn lọc kĩ càng, biểu hiện đa dạng, nói lên được biết bao nhiêu phong tục, bản sắc văn hóa, thiên nhiên hữu tình của người Thái
Đôi ta yêu nhau, tình Lú - Ủa mặn nồng,
Lời đã trao thương không lạc mất;
Như bán trâu ngoài chợ,
Như thu lúa muôn bông.
Lòng ta thương nhau trăm lớp nghìn trùng,
Bền chắc như vàng, như đá.
Toàn bộ đoạn trích có sự sử dụng thành thạo nhiều yếu tố nghệ thuật hấp dẫn, phương pháp diễn tả trùng điệp, lỗi kể chuyện xen lẫn tả thơ cuốn hút. Tạo nên sư cân đối nhịp nhàng, hài hòa về nhạc điệu bộc lộ được sự ân cần, tận tình của người con trai dành cho người yêu xứng đáng, trọn vẹn, hành động xót xa, ân cần, đầy thương cảm, vang mãi trong ta lời thề nguyện tình yêu.
Quả đúng vậy, kết thức câu chuyện chính là một cái kết rất dân gian, rất có hậu, họ cùng nhau vượt qua số phận khắc nghiệt, đoàn tụ lại, làm lại cuộc đời mới có nhau dù khi cả hai đã không còn trẻ trung, chàng trai đã giữ đúng lời hứa với cô gái ngày nào, bằng chính lòng chân thành, lòng chung thủy, sự cao thượng. Sự trong sáng, chân chính của họ đã làm cho chúng ta một lần nữa tin rằng luôn có sự kì diệu trong cuộc sống này.
Tâm hồn, tập tục hôn nhân của người Thái xưa có thể nói được phản ánh phần nào qua những câu tiễn dặn, cũng vì lí do hoàn cảnh khó, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy là nguyên nhân đầu tiên dẫn đến bao nhiêu sự chia ly, bi đát, đau thương của vô vàn các cuộc tình đẹp như thơ. Lời tiễn dặn cũng mang ý nghĩa sâu xa là sự tố cáo lên những cổ hủ, tập quán lạc hậu của người dân, đã làm họ dần mất dần đi sự tự do trong tình yêu, mất tính phản kháng. Vậy nên mỗi chàng trai, cô gái có được những cái khát vọng mạnh mẽ giải phóng trong tình yêu, bất chấp ngăn cản như hai nhân vật chính trong Tiễn Dặn Người Yêu thật là đáng để chúng ta phải học tập, ngưỡng mộ, đồng cảm.
-
"Tôi với em cuộc tình hai lối rẽ
Như sao trời chỉ soi sáng đêm đen".
Tình yêu là những gì thiêng liêng nhất, đẹp nhất của cuộc sống này mà loài người may mắn được tạo hóa ban tặng. Bởi nó là thứ vô giá, nên không phải ai cũng dễ dàng có được. Trong xã hội phong kiến, bao người khao khát có được tình yêu, chỉ mong mỏi một điều giản đơn rằng được ở cạnh người mình yêu, để rồi đối mặt với hiện thực là không thể. Những con người ấy chỉ biết âm thầm quan sát, dõi theo bước chân của người yêu và luôn cố gắng vượt qua mọi trắc trở để giành lại hạnh phúc của mình. Đó cũng chính là chủ đề và nội dung chính của truyện thơ "Lời tiễn dặn" của dân tộc Thái, truyện đã bộc lộ rõ nét tâm trạng đau khổ, bất lực, ngậm ngùi của một chàng trai khi tiễn bước người yêu về nhà chồng, và khao khát cùng nhau vượt bao sóng gió để được đoàn tụ bên nhau.
"Tiễn dặn người yêu" (nguyên văn tiếng Thái: Xống chụ xon xao) là một trích đoạn trong truyện thơ đặc sắc, tiêu biểu nhất của dân tộc Thái giữa một kho tàng văn học các dân tộc thiểu số. Truyện thơ là những truyện dài kể bằng thơ, có sự kết hợp ăn ý, hài hòa giữa hai yếu tố tự sự và trữ tình. Một trong hai chủ đề nổi bật của thể loại này là khát vọng tự do yêu đương và hạnh phúc lứa đôi. Và cốt truyện mang chủ đề thường trải qua ba cột mốc như sau: Đôi nam nữ yêu nhau tha thiết - Tình yêu bị ngăn cấm rồi tan vỡ, đau khổ - Tìm mọi cách vượt lên tình cảnh ngang trái để được ở cạnh nhau (bằng cách chết cùng nhau hoặc cùng nhau vượt khó khăn để được bên nhau).Và bài thơ "Lời tiễn dặn" có kết thúc theo cách thứ hai.
Một trong những điều đau khổ nhất trong cuộc đời là không thể cùng sống hạnh phúc với người mình yêu. Đó cũng chính là tâm trạng, nỗi khổ tâm của cô gái trong truyện, được chàng trai cảm nhận với cả tấm lòng. Cô gái bịn rịn, lưu luyến, không muốn xa rời người yêu qua những hành động cụ thể:
"Vừa đi vừa ngoảnh lại,
Vừa đi vừa ngoái trông,
Chân bước xa lòng càng đau nhớ.
Em tới rừng ớt ngắt lá ớt ngồi chờ,
Tới rừng cà ngắt lá cà ngồi đợi,
Tới rừng lá ngón ngóng trông".
Những hành động "ngoảnh lại, ngoái trông" chẳng phải bộc lộ rõ chúng ta đang chờ đợi một ai đó sao? Đúng vậy nàng đang chờ đợi được gặp mặt chàng trước khi trở thành vợ của một người khác. Kèm theo đó, là một loạt hành động tiếp theo (ngắt lá ớt, ngắt lá cà) mục đích duy nhất chỉ là muốn chờ đợi người yêu. Qua mỗi cánh rừng đều dừng lại để ngắt lá, người con gái muốn níu kéo thời gian dài ra, khát khao muốn được gặp lại người yêu thêm chút nữa. Tất cả những điều đó qua ánh mắt, qua hành động thể hiện rõ tâm trạng đau khổ, nỗi lòng xót xa, quyến luyến không muốn rời xa, kết thúc mối tình tuyệt đẹp của mình.
Thông thường, những người khi yêu nhau thì sẽ có một mối tương thông là thần giao cách cảm. Có lẽ, chàng trai cảm nhận được người yêu đang cần mình, như hai người đã hẹn nhau từ trước, chàng trai đã tới những nơi người yêu mình từng đi qua:
"Anh tới nơi, em bẻ lá xanh em ngồi;
Được nhủ đôi câu, anh mới đành lòng quay lại,
Được dặn đôi lời, anh yêu em mới chịu quay đi".
Lời tiễn dặn nghe sao mà da diết, day dứt quá. Anh cũng như chị, cũng muốn níu dài thêm những giây phút bên nhau nên mới cố tình dặn dò thêm đôi ba câu để được gần chị đôi chút. Ngôn ngữ xưng hô của người Thái nghe sao mà ngọt ngào quá. Anh xưng "anh yêu em ý nói anh yêu của em" và anh cũng gọi chị là "người đẹp anh yêu" ngay từ câu thứ hai của bài thơ, thể hiện tình yêu anh dành cho chị vẫn còn nguyên vẹn, vẫn mặn nồng, sâu sắc dù cho giờ đây chị đã cất bước theo chồng.
Dĩ nhiên khi yêu ai đó ngoài việc muốn được ở bên nhau còn luôn mong muốn lúc nào cũng cảm nhận được có người yêu ở bên để đỡ phải nhung nhớ. Và người Thái cũng thế nên mới có một phong tục như sau:
"Xin hãy cho anh kề vóc mảnh,
Quấn quanh vai ủ lấy hương người,
Cho mai sau lửa xác đượm hơi
ột lát bên em thay lời tiễn dặn!"
Theo phong tục hỏa táng của người dân tộc Thái xưa, khi con người chết đi linh hồn muốn siêu thoát cần có hương của người mà mình yêu thương nhất. Vì thế, chàng trai nghĩ rằng không lấy được người mình yêu coi như rằng cả đời này sẽ không có ai yêu, vì vậy trong giây phút này, khi chàng còn gần nàng thì muốn được quấn lấy, gần sát nàng để mong còn lưu luyến hương thơm của người yêu để sau khi chết sẽ không trở thành kẻ cô đơn, lạc lõng.
Ai mà không mong sau khi lấy được người mình yêu thì có thể cùng nhau xây dựng một tổ ấm viên mãn, hạnh phúc bên bạn đời. Thế nhưng, có mấy người đàn ông nào được như anh, vì yêu chị mà tấm lòng vị tha, bao dung của anh đã vượt cả giới hạn thông thường:
"Con nhỏ hãy đưa anh ẵm,
Bé xinh hãy đưa anh bồng,
Cho anh bế con dòng, đừng ngượng,
Nựng con rồng, con phượng, đừng buồn".
Mất người yêu đã đành đằng này nhìn người yêu có con với một người khác, mà tình yêu của chàng trai đối với cô gái không hề thuyên giảm, thể hiện qua hành động anh bế bồng đứa con không phải của mình vô cùng nâng niu, âu yếm và đầy tình thương. Có thể thấy, tất cả những gì liên quan đến chị, thì anh vô cùng trân trọng mà hết lòng yêu thương. Sự vị tha, bao dung ấy là bằng chứng cho tình yêu bền vững, kiên định mặc cho giờ đây cô đã tay bồng, tay mang.
Kết thúc phần một, là lời thề nguyền vô cùng chắc chắn với người con gái anh yêu:
"Đôi ta yêu nhau, đợi tới tháng Năm lau nở,
Đợi mùa nước đỏ cá về,
Đợi chim tăng ló hót gọi hè.
Không lấy được nhau mùa hạ, ta sẽ lấy nhau mùa đông,
Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi goá bụa về già".
Lời thề nguyền vô cùng chắc chắn thể hiện qua thời gian cụ thể, những hình ảnh vô cùng trữ tình ngọt ngào minh chứng cho tình yêu sắt đá của anh dành cho chị. Qua cách lấy mốc thời gian từ đầu đến cuối năm (mùa xuân đến mùa đông) đó chính là một quãng đời người, cụ thể là cuộc đời của anh ngoài chị ra sẽ không yêu bất cứ ai khác. Tiếp đến là cột mốc từ "thời trẻ đến khi "góa bụa về già". Đối với chàng trai việc đến với nhau không bao giờ là muộn, vì thế nếu tuổi thanh xuân không được ở bên nhau thì khi "đầu bạc rang long" ta sẽ đoàn tụ. Bên cạnh đó, tác giả đã sử dụng nghệ thuật điệp cấu trúc "Không lấy được nhau...ta sẽ lấy nhau" khẳng định sự quyết tâm đến cùng, sẽ tìm mọi cách để được ở bên người anh yêu.
Khi yêu người ta luôn mong muốn có thể khiến cho người yêu luôn hạnh phúc. Thế nhưng chàng trai này đã không thể làm được điều đó. Đó chính là nỗi đau khổ, luôn dằn xé trong tâm tư của chàng trai khi chứng kiến cô gái bị đánh đập, hành hạ ngay trước mắt, giờ đây anh chỉ còn có thể làm một việc duy nhất là chăm sóc, an ủi bên cô trong giai đoạn cay đắng này:
Dậy đi em, dậy đi em ơi! Dậy rũ áo kẻo bọ, Dậy phủi áo kẻo lấm! Đầu bù anh chải cho, Tóc rối đưa anh búi hộ! Anh chặt tre về đốt gióng đầu, Chặt tre dày, anh hun gióng giữa, Lam ống thuốc này em uống khỏi đau".
Vì muốn một lòng chung thủy son sắt với người yêu, nên có lẽ cô gái đã phản kháng, làm trái với đạo lý của một người con dâu, chỉ để mong bị đuổi, trả về nhà, đoàn tụ với người yêu. Đương nhiên, cô phải trả giá cho những điều đó. Cô bị đánh đập, hành hạ, và bị đối xử như người ở trong nhà. Tất cả những việc cô làm, chàng trai đều hiểu hết, giờ đây trong chàng là một nỗi xót xa, bất lực cùng cực, chỉ còn có thể đứng đằng sau mà vỗ về, an ủi, tận tình chăm sóc sau những trận đòn roi của gia đình chồng.
Không phải chỉ có một mình cô gái đang chiến đấu, đấu tranh để được quay về bên chàng trai, anh muốn nói với cô rằng dù cho có chuyện gì xảy ra thì cô sẽ không một mình, luôn có anh ở bên cô cùng cô vượt qua mọi sóng gió:
"Tơ rối đôi ta cùng gỡ,
Tơ vò ta vuốt lại quay guồng;
Quay lại guồng gỗ tốt cán thuôn,
Về với người ta thương thưở cũ".
Những hình ảnh "tơ rối ta cùng gỡ, tơ vò vuốt lại" là minh chứng cho câu hứa chàng sẽ cùng người yêu đối mặt mọi sóng gió, luôn là chỗ dựa vững chắc cho cô mỗi khi gặp trắc trở.
Sức chịu đựng của con người là có giới hạn, tức nước thì vỡ bờ. Thực tế quá cay đắng, chàng trai quyết tâm muốn phá vỡ mọi quy tắc, giành lại người yêu được thể hiện qua những hình ảnh về cái chết:
"Chết ba năm hình còn treo đó;
Chết thành sông, vục nước uống mát lòng,
Chết thành đất, mọc dây trầu xanh thắm,
Chết thành bèo, ta trôi nổi ao chung,
Chết thành muôi, ta múc xuống cùng bát".
Chết là khi con người ta đã tới bước đường cùng, không thể làm gì được nữa, quá bức xúc với hiện thực cuộc sống. Nhưng cặp đôi này lại không lựa chọn phương án đó mà trái ngược là thái độ quyết tâm sống hạnh phúc, sống mạnh mẽ, cùng nhau phá vỡ rào cản xã hội phong kiến khắt khe để đi đến con đường tình yêu của hai người. Sử dụng hình ảnh cái chết, chỉ để càng khẳng định sức sống mãnh liệt, muốn đoàn tụ bên nhau của hai người.
"Có công mài sắt, có ngày nên kim". Kiên trì mài giũa tình yêu cùng với niềm tin tưởng tuyệt đối sẽ đem đến niềm tin về cái kết có hậu như một câu chuyện cổ tích ngọt ngào:
Đôi ta yêu nhau, tình Lú - Ủa mặn nồng,
Lời đã trao thương không lạc mất;
Như bán trâu ngoài chợ,
Như thu lúa muôn bông.
Lòng ta thương nhau trăm lớp nghìn trùng,
Bền chắc như vàng, như đá.
Yêu nhau, yêu trọn đời gỗ cứng,
Yêu nhau, yêu trọn kiếp đến già,
Ta yêu nhau tàn đời gió, không rung không chuyển,
Người xiểm xui, không ngoảnh không nghe".
Bằng biện pháp tu từ so sánh, tác giả đã khiến cho ta thêm biết được các phong tục, tập quán vô cùng đặc sắc của người Thái, và những câu chuyện tình yêu ngọt ngào của các cặp đôi dân tộc Thái. Sau bao sóng gió, nỗ lực giành lấy hạnh phúc, cuối cùng hai người đã đoàn tụ, được sống bên nhau trọn vẹn. Sức mạnh tình yêu chân chính sẽ khiến cho họ có một kết thúc vô cùng có hậu.
Cái kết của họ chính là niềm tin vào một tình yêu chân chính. Nó có thể khiến những điều tưởng chừng không thể thành có thể. Họ sẽ cùng nhau vượt qua mọi gian nan, biến cố của cuộc đời này để nhận lại những gì xứng đáng nhất. Chàng trai thực hiện được đúng lời hứa của mình bằng tất cả lòng yêu thương, sự tin tưởng, ý chí kiên định với tình yêu sắt đá của hai người. Câu chuyện của hai người là một bằng chứng sống của niềm tin vào tình yêu chân chính trong xã hội xưa khắc nghiệt. Thông qua đó, đoạn trích còn phản ánh một hiện thực khắc nghiệt chính là những phong tục, tập quán cổ hủ, lạc hậu khi xưa khiến cho tình yêu chân chính bị ngăn cấm, làm cho nhiều mối tình bị tan vỡ vì những định kiến khắt khe và vô lý của xã hội phong kiến miền núi. Đồng thời tác giả bày tỏ tiếng nói, khát vọng được tự do yêu đương, tự quyết định bạn đời, cuộc sống hôn nhân của các cặp đôi người Thái.
-
Tiễn dặn người yêu (Xống chụ xon xao) kể về câu chuyện tình cảm động của đôi trai gái Thái cùng vói đau khổ cũng như khát vọng yêu đương của họ. Tiễn dặn người yêu là một trong những truyện thơ tiêu biểu và đặc sắc trong kho tàng văn học dân gian các dân tộc thiểu số, được bổ sung qua nhiều thế hệ người Thái. Người Thái coi đây là cuốn sách quý nhất trong mọi cuốn sách quý vì nó thể hiện rõ nét cuộc sống và tâm hồn Thái.
Truyện thơ Tiễn dặn người yêu gồm 1846 câu thơ, trong đó chỉ có gần 400 câu tiễn dặn. Đoạn trích được lựa chọn để đọc thêm rất tiêu biểu cho nội dung Cách miêu tả trong đoạn trích cho thấy rõ người con gái đã cố trì hoãn thời gian trên đường cất bước về nhà chồng. Mỗi cánh rùng nàng đi qua đều là một không gian biểu cảm tạo ra cái cớ để mong có cơ hội gặp người yêu:
Em tới rừng ớt ngắt lá ớt ngồi chờ,
Tới rừng cà ngắt lá cà ngồi đợi,
Tới rừng lá ngón ngóng trông.
Từ đầu đoạn trích, liên tiếp các từ ngoảnh lại, ngoái trông, đau nhớ, ngồi chờ, ngồi đợi,... được sử dụng dồn dập, liên tiếp đã thể hiện rõ nỗi lòng đau khổ, nhớ thương, quyến luyến của cô gái. Điều đặc biệt là hình ảnh cô gái lại hiện lên qua cái nhìn, tâm trạng của chàng trai giống như qua một thước phim quay chậm đến từng chi tiết. Điều này chứng tỏ chàng trai đã âm thầm quan sát cô gái với tất cả sự trìu mến, xót thương. Họ đã hiểu nhau đến từng hành động và ý nghĩ. Không gian núi rừng bình dị, quen thuộc của đồng bào Thái được miêu tả trực tiếp như một tấm phông rộng lớn cùng chia sẻ, đồng cảm với lòng người. Chàng trai đã tới vì dường như họ đã ước hẹn với nhau và như lời chàng giãi bày:
Anh tới nơi, em bẻ lá xanh em ngồi;
Được nhủ đôi câu, anh mới đành lòng quay lại,
Được dặn đôi lời, anh yêu em mới chịu quay đi.
Lời tiễn dặn của chàng trai thể hiện một tình yêu lãng mạn, thấm đượm vẻ đẹp huyền bí và hấp dẫn của phong tục, tín ngưỡng và hơn hết thảy là tâm hồn người đàn ông Thái đem đến cho khổ thơ một ấn tượng đặc biệt khó quên. Người Thái có tục hoả táng, muốn cho thân xác cháy đượm, linh hồn được siêu thoát, cần có hơi hương của người thân yêu nhất. Bởi thế, mặc dù nhận thức được hoàn cảnh, chàng vẫn gắn bó thuỷ chung. Chàng muốn gần “kề vóc mảnh”, được có hơi hương người yêu trong phút chia tay bịn rịn này để nếu có chết hồn cũng không bị cô đơn:
Xin hãy cho anh kề vóc mảnh,
Quấn quanh vai ủ lấy hương người,
Cho mai sau lửa xác đượm hơi,
Một lát bên em thay lời tiễn dặn!
Mở đầu đoạn trích, chàng trai đã âu yếm gọi cô gái là “người đẹp anh yêu”, “anh yêu em”. Cách xưng hô, cách gọi đậm chất trữ tình, đặc trưng cho lời ăn tiếng nói của đồng bào Thái và mang sắc thái trữ tình sâu sắc. Vẻ đẹp của người con gái Thái được miêu tả bàng một nét phác hoạ chính xác hết sức tài tình: "Xin hãy cho anh kề vóc mảnh" bởi ai đã từng tiếp xúc với người phụ nữ Thái hẳn sẽ ấn tượng với dáng vóc mảnh mai có phần kiêu sa của họ. Truyện thơ khác với các thể loại tự sự văn xuôi ở ưu thế tả người, tả cảnh, tả tình, ơ phần khác của truyện thơ này có một số dòng miêu tả vẻ đẹp của người con gái: "Ngón tay thon lá hành - Đuôi mắt dài như mắt lá trầu xanh". Chính đoạn thơ này đã trở thành điểm nhấn và là cảm hứng tạo nên đầu đề của truyện thơ Tiễn dặn người yêu. Vì chỉ ở thời điểm này, tình yêu mới bộc lộ được hết sắc độ của nó, với yêu thương, đớn đau, tuyệt vọng và quyết tâm không gì lay chuyển. Mặc dù cô gái đã có con với người chồng mà cô không yêu nhưng điều đó khống làm giảm tình yêu, sự trân trọng của chàng trai dành cho cô. Anh vẫn nựng con của người yêu âu yếm như nựng con của chính mình:
Con nhỏ hãy đưa anh ẵm,
Bé xinh hãy đưa anh bồng,
Cho anh bế con dòng, đừng ngượng,
Nựng con rồng, con phượng, đừng buồn.
Có thể thấy sự nhân ái, lòng vị tha nồng ấm tình yêu trong trái tim người đàn ông Thái cao thượng. Tình yêu của chàng trai có độ bền vững qua thời gian, ngay cả khi cô đã tay bồng, tay mang. Kết thúc phần 1 vang lên điệp khúc tình yêu vói lời thề nguyền, ước hẹn:
Đôi ta yêu nhau, đợi tới tháng Năm lau nở,
Đợi mùa nước đỏ cá về,
Đợi chim tăng ló gọi hè.
Không lấy được nhau mùa hạ, ta sẽ lấy nhau mùa đông,
Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi goá bụa về già.
Thời gian mùa hạ, mùa đông trong câu thơ trên mang ý nghĩa biểu tượng, tương đồng với tuổi thanh xuân sôi nổi, tươi đẹp thời trẻ và tuổi già tàn phai, héo úa (goá bụa về già). Lời thề nguyền của chàng trai thật chân thành, cụ thể. Trong nhiều đoạn khác của truyện thơ luôn vang lên điệp khúc thề nguyền cảm động như thế và hơn thế. Cử chỉ, hành động và tâm trạng của chàng trai lúc ở nhà chồng của cô gái Chàng trai an ủi, động viên khi cô gái bị nhà chồng hành hạ, và một lần nữa khẳng định sự chung thuỷ son sắt trong tình yêu. Để giữ lời thề nguyền, quyết bảo vệ tình yêu và ước vọng được đoàn tụ cùng người yêu, nàng tuy về nhà chồng nhưng cố tình phản kháng lại sự xếp đặt của số mệnh, giả bộ ương bướng, ngớ ngẩn, vụng về để cho nhà chồng chán mình mà đuổi về bàng những việc làm: "Rửa bát xóc cả rổ - Rửa ốc rửa từng con". Người phụ nữ về nhà chồng phải ăn cơm thừa canh cặn, phải làm việc cực nhọc lại bị hành hạ, ngược đãi đủ đường. Trước phần 2 của đoạn trích là cảnh cô gái bị nhà chồng đánh ngã lăn quay bên cối gạo. Đoạn đầu của phần 2 miêu tả những hành động, cử chỉ ân cần, chăm sóc, lo lắng thuốc thang của chàng trai dành cho cô gái. Lời nói của chàng thật dịu dàng, chan chứa xót thương:
Dậy đi em, dậy đi em ơi !
Dậy rũ áo kẻo bọ,
Dậy phủi áo kẻo lấm !
Đầu bù anh chải cho,
Tóc rối đưa anh búi hộ !
Anh chặt tre về đốt gióng đầu,
Chặt tre dày, anh hun gióng giữa,
Lam ống thuốc này em uống khỏi đau.
Tình yêu của chàng trai thật chân thành, dịu dàng, đằm thắm, không chỉ thể hiện ở những lời thề nguyền mà biểu hiện cụ thể qua hành động và lời nói ân cần, tha thiết khiến người nghe xiết bao cảm động. Những hình ảnh như : “Tơ rối đôi ta cùng gỡ - Tơ vò ta vuốt lại quay guồng” mang ẩn ý dẫu hoàn cảnh khó khăn thế nào nếu đồng lòng củng có thể giải quyết ổn thoả:
Quay lại guồng gỗ tốt cán thuôn,
Về với người ta thương thuở cũ.
Trong thơ ca dân gian của người Thái, người Mông hay nhắc đến cái chết. Đó là một thủ pháp nghệ thuật để biểu hiện ý chí quyết bảo vệ tình yêu đến cùng. Cái chết là giới hạn cuối cùng của thử thách, nhưng "cái chết" cũng chỉ là cách biểu hiện quyết tâm (thực chất người trong cuộc không nghĩ đến cái chết và quả thực trong truyện này hai người đã quyết sống một cách mạnh mẽ và họ đã tìm lại được tình yêu):
Chết ba năm hình còn treo đó;
Chết thành sông, vục nước uống mát lòng,
Chết thành đất, mọc dây trầu xanh thắm,
Chết thành bèo, ta trôi nổi ao chung,
Chết thành muôi, ta múc xuống cùng bát,
Chết thành hồn, chung một mái, song song.
Phương pháp so sánh được sử dụng đậm nét trong phần kết của đoạn trích. Hình ảnh so sánh được chọn lọc đa dạng, biểu hiện phong tục, bản sắc văn hoá tinh thần, cảnh sắc thiên nhiên dân tộc Thái:
Đôi ta yêu nhau, tình Lú - Ủa mặn nồng,
Lời đã trao thương không lạc mất;
Như bán trâu ngoài chợ,
Như thu lúa muôn bông.
Lòng ta thương nhau trăm lớp nghìn trùng,
Bền chắc như vàng, như đá.
Toàn bộ đoạn trích là lời tiễn dặn người yêu, hành động chăm sóc ân cần, xót xa thương cảm và âm vang điệp khúc nguyện thề giữ trọn tình yêu. Kết thúc truyện thơ Tiễn dặn người yêu là một kết thúc có hậu theo truyền thống của vân học dân gian: ước mơ thành sự thật. Hai người đoàn tụ, làm lại cuộc đời trong tĩnh yêu bất diệt. Chàng trai đã giũ đúng lời nguyện ước của mình "Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi goá bụa về già". Con người đã vượt lên trên số phận khắc nghiệt bởi những hành động tích cực đáng trân trọng, bởi lòng chung thuỷ, sự cao thượng và sức mạnh tình yêu chân chính.
-
Tiễn dặn người yêu nguyên văn tiếng Thái là Xống chụ xon xao(1) một trong những truyện thơ hay nhất của kho tàng truyện thơ dân gian các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, cũng là truyện thơ được người Thái hết sức yêu mến, say mê, coi là niềm tự hào của dân tộc Thái. Người Thái có câu: “Hát Tiễn dặn lên, gà ấp phải bỏ ổ, cô gái quên hái rau, anh đi cày quên cày” để diễn tả sức hấp dẫn của tác phẩm.
Tiễn dặn người yêu là câu chuyện tình thơ mộng và đầy nước mắt của một đôi trai gái dân tộc Thái. Họ sinh ra và lớn lên trong hai gia đình cùng cảnh nghèo. Họ thân thiết, quấn quýt bên nhau từ khi còn nhỏ, ai cũng nghĩ rằng họ sẽ là một đôi hạnh phúc:
Đôi ta gặp nhau nơi sàn hoa,
Tâm tình bên bếp lửa,
Chuyện nối chuyện qua mau,
Đêm tiếp đêm mặn mù…
Đôi ta ngồi khuông tận khi trời sủng,
Đeo mộng về nhà lúc xế vầng trăng…
Cô gái càng lớn càng xinh đẹp. Cha mẹ cô tham giàu nhận sính lễ, ép gả cô cho chàng trai lạ, khiến đôi trẻ phải chia lìa. Người yêu cô đau khổ và phẫn uất quyết ra đi làm giàu, hi vọng sẽ về kịp trước khi người kia hết hạn rể ngoài, chàng sẽ giành lại người yêu. Theo phong tục hôn nhân của người Thái xưa, trước khi kết hôn người con trai phải đến nhà vợ ở rể. Khoảng một đến ba năm đầu anh đi làm cho nhà vợ nhưng phải ở đằng quản (một phía đầu nhà, chỉ dành cho khách và đàn ông trong nhà), ăn riêng mâm, được coi như khách ở chơi. Sau thời gian thử thách trên, nhà gái mới chính thức cho anh làm rể trong, được làm lễ chung chăn gối. Thời hạn rể trong cũng khoảng từ một đến ba năm, theo yêu cầu của nhà gái. Hết hạn ở rể, vợ chồng được nhà vợ chia của cho ra ở riêng hoặc về ở nhà chồng. Cô gái đã chờ người yêu hết thời hạn rể ngoài, lại hết cả thời hạn rể trong. Năm cuối cùng đã hết, cô phải đi về nhà chồng. Đúng lúc đó thi người yêu cô trở về, nhimg tất cả đã trở nên quá muộn : “Lời tình tự lắng sâu trong dạ - Yêu em , anh tiễn đưa em về tới tận nhà”. Trên đường xa dằng dặc, anh vừa an ủi cô vừa dặn dò tỉ mỉ từng nết ăn nết ở sao cho đẹp lòng gia đình nhà chồng:
Bậc thang cuối nhà chồng chớ ngồi,
Ghế chị chồng ngồi chớ đụng,
Giữ gạo đừng chửi lợn,
Chăn lợn đừng chửi gù…
Anh săn sóc cô như một người anh, đỡ đần an ủi khi cô bị nhà chồng hắt hủi, đánh đập. Anh cũng dặn dò cô về mối tình thuỷ chung khăng khít của mình: “Không lấy được nhau mùa hạ, ta sẽ lấy nhau mùa đông - Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi goá bụa về già”. Cũng chính vì những lời dặn dò yêu thương vô cùng kì lạ và cảm động đó mà truyện thơ có tên Tiễn dặn người yêu.
Chứng kiến những bất công và sự hành hạ dã man của gia đình nhà chồng với cô, anh đau xót hơn cả chính mình bị hành hạ. Từ chỗ dặn cồ phải làm một người dâu hiền thảo, đến lúc đó anh lại dặn cô:
Rửa ốc rửa từng con,
Rửa bát xóc cả rổ/
Rửa muôi gõ miệng nồi…
Hãy làm ra vẻ vụng về để nhà chồng trả cô lại cho cha mẹ, may ra còn được ở bên nhau.
Bị đánh đập, hành hạ, quá đau khổ và thất vọng, cô trở nên vụng dại, ngẩn ngơ. Nhà chồng liền mang cô về trả cho cha mẹ. Vừa về nhà, cha mẹ vội bán đứt cô cho một người đàn ông khác. Lần này về nhà chồng, cô lại càng tỏ ra vụng về, bướng bỉnh hơn: “Đêm ngủ những chê đệm, tỉnh dậy lại nhiếc chồng - Chải tóc thì chải ngược, ngồi ghế lật ngửa ghế…”. Nhà chồng không chịu được bèn đem cô ra chợ bán. Nhưng từ sáng tới chiều chẳng có ai ngó ngàng, họ đành đổi cô lấy bó lá dong. Người đổi cô về lại chính là người yêu cũ. Lúc này anh đã có nhà cao cửa rộng, vợ con để huề, không nhận ra người yêu trẻ đẹp xưa trong hình hài tàn tạ. Đau khổ, cô mang đàn môi (kỉ vật xưa anh tặng) ra thổi. Nhận ra cô qua tiếng đàn mội, vui mừng khôn xiết, anh chia tài sản gia đình cho vợ cũ ra ở riêng, rồi sống hạnh phúc cùng cô.
Câu chuyện thương tâm của đôi bạn tình người Thái đã kết thúc có hậu. Sau bao đau khổ, cuối cùng những người yêu nhau đã được về đoàn tụ bên nhau. Kết thúc đó chính là niềm an ủi và làm nên sức hấp dẫn của Tiễn dặn người yêu đối với bao chàng trai cô gái Thái các thế hệ.
Đoạn trích Lời tiễn dặn đã thể hiện được một phần chủ đề và cái hay, cái đẹp của truyện thơ về cả nội dung và nghệ thuật.
Đó là tâm trạng đau khổ của cô gái khi phải về nhà chồng. Cô gái ước hẹn sẽ chờ người yêu trở về, nhưng người kia[1] đã hết hạn rể ngoài lại đủ công rể trong mà người yêu đâu không thấy. Cô đành phải theo chồng về nhà. Những câu thơ mở đầu đoạn trích giới thiệu hoàn cảnh của cô:
Vừa đi vừa ngoảnh lại,
Vừa đi vừa ngoái trông,
Chân bước xa lòng càng đau, nhớ…
Phải về nhà chồng nhưng chưa gặp được người yêu để nói lời giã biệt, nên “Chân bước xa lòng càng đau, nhớ”. Hoàn cảnh ấy tạo ra tâm trạng bồn chồn, đau khổ, không yên. Hình ảnh cô vừa đi vừa ngoảnh lại, vừa đi vừa ngoái trông, lòng càng đau, nhớ… đã thể hiện tâm trạng trên. Các điệp ngữ vừa đi vừa ngoái, vừa đi vừa ngoảnh chỉ tâm thế của người đi chẳng để vào việc đi mà đang để ở phía sau, ở quá khứ thơ mộng đã dần trở thành kỉ niệm. Hơn nữa, cụm từ tới rừng ớt, tới rừng cà, tới rừng lá ngón kết hợp với động từ chờ, đợi, ngóng trông khiến ta hình dung con đường đi xa ngái và trạng thái dùng dằng, bồn chồn, chờ đợi “Bước đi một bước giây giây lại dừng” của cô. Rừng ớt, rừng cà (dại), rừng lá ngón là những hình ảnh thiên nhiên cụ thể, những loại cây cỏ đặc biệt của rừng núi được thể hiện tăng tiến dần, làm cho lời thơ mang bản sắc văn hoá các dân tộc miền núi và mang tính ước lệ cao về những nỗi cay đắng vô tận, trạng thái tâm lí đau khổ, day dứt chất chứa trong lòng nhân vật. Cùng với trạng thái đầy đau khổ đó, dường như cô lo âu, dự cảm được điều không may mắn đang chờ đợi mình ở phía trước, ở gia đình nhà chồng.
Ớ đây, cảnh đã góp phần thể hiện tình, cảnh chính là tình, làm nền để cho tình cảm, nỗi niềm được bộc lộ sinh động và sâu sắc. Cả cảnh và tình đều thể hiện sự lo lắng, đau khổ, bế tắc của cô gái khi về nhà chồng. Cùng với cảnh, trong truyện thơ nhiều lần còn có hình ảnh nước mắt của cô gái, lần nào nước mắt cũng chảy dài, chảy nhiều như sông như suối:
Nước mắt rỏ hai dòng,
Rỏ ba dòng,
Dòng rơi đằng trước đủ tràn nam máng,
Dòng rơi đẳng sau đủ cho em rửa mặt ủn cơm…
Nỗi đau khổ đó bắt nguồn từ cuộc hôn nhân không tự nguyện, không có tình yêu của cô, mà nguyên nhân sâu xa là do xã hội phong kiến dân tộc Thái đã dành cho cha mẹ quyền định đoạt hôn nhân của con cái, đặc biệt là con gái. Cho nên nỗi đau khổ của cô cũng là nỗi khổ đau chung của những người phụ nữ Thái trong xã hội cũ.
Là tâm trạng, tình cảm của chàng trai khi tiễn người yêu về nhà chồng
Ra đi với hi vọng làm giàu, trở vể chuộc lại người yêu, nhưng khi trở về chàng trai mới biết mình đã quá trễ tràng “đành nhìn em yêu bước về nhà chồng”. Tâm trạng đầu tiên ào đến trong lòng anh là sự đau khổ, tiếc nuối khôn nguôi. Nuối tiếc mà không thể níu kéo người yêu, chỉ đành đi theo cô về tận nhà chồng. Tâm trạng đó thể hiện qua lời nói đầy cảm động:
“Được nhủ đôi câu anh mới đành lòng quay lại
Được dặn đôi lời, anh yêu em mới chịu quay đi”.
Dù đã muộn rồi, dù có phải xa em anh cũng muốn được nói đôi lời mới yên lòng chia biệt. Tâm trạng đó còn được thể hiện qua niềm ao ước tội nghiệp, mang tình cảm tha thiết, quyến luyến, tình yêu sâu sắc của anh. Theo phong tục của người Thái, khi một người thân yêu mất đi, người ta đốt theo mấy sợi tóc hay những vật dụng thân thiết của người sống để lửa thiêu xác thêm đượm. Anh ao ước được “kề vóc mảnh - Quấn quanh vai ủ lấy hương người - Cho mai sau lửa xác đượm hơi…”. Anh muốn giữ lại hơi hướng của người yêu cho đến chết, để những kỉ niệm yêu thương giữa hai người sẽ cùng anh lên giàn thiêu. Tinh yêu sâu sắc ấy còn thể hiện ở hành động săn sóc thiết tha của anh. Anh tiễn người yêu đến tận nhà chồng, bồng bế, chăm sóc con nhỏ của cô suốt dọc đường đi như đứa con bé bỏng của chính mình. Anh muốn được “Một lát bên em thay lời tiễn dặn !” và dường như thay cho cả quãng đời cô đơn còn lại của mình… Tâm trạng ấy còn là sự bàng hoàng, không thể tin rằng tình yêu của anh quá ngắn ngủi “chưa trọn một ngày, chưa đầy một khắc” đã phải chia li. Thời gian ở đây là thời gian tâm lí, thời gian cảm thức, không còn là thời gian thực tế nữa. Từ láy chưa trọn, chưa đầy biểu hiện sự dở dang, như càng làm rõ hơn sự bàng hoàng, tiếc nuối của chàng trai. Tất cả những cảm nghĩ, hành động ấy đều là minh chứng sinh động cho tình yêu sôi nổi, tha thiết, chân thành và bộc trực của anh. Ta cũng hiểu thêm thế giới tâm hồn, tình cảm vừa phong phú, vừa thuần phác của các chàng trai dân tộc Thái trong tình yêu.
Mặc dù quyến luyến, nuối tiếc người yêu, nhưng sâu xa trong lòng anh vẫn hiểu “Của không mua, lẽ đâu được giữ liền tay”, anh không có thời gian rể ngoài cũng chẳng có thời gian rể trong, không có “gói trầu mang đến gửi” để được nhà gái công nhận thì làm sao có thể giữ được người yêu, làm sao hai người có thể nên vợ nên chồng. Tiếc nuối, quyến luyến và cũng có lúc từng muốn “Không lấy được em anh làm loạn giữa phủ - Không lấy được em anh làm loạn giữa mường” nhưng lòng anh vẫn luôn canh cánh lời tự nhắc “anh đành lòng quay lại”, “anh mới chịu quay đi”,… Anh vẫn như nghe văng vẳng đâu đây tiếng nói khách quan, nghiêm khắc của tập tục, tiếng nhắc nhở của thực tại tỉnh táo, nhắc anh hãy thoả hiệp với số phận, thuận theo tập tục. Anh đau khổ, nuối tiếc nhưng đành tiễn người yêu ra đi. Điệp từ quay đi, quay lụi được lặp lại nhiều lần cho thấy lí trí mách bảo chàng trai phải hiểu hoàn cảnh không thể thay đổi của hai người, đồng thời tình cảm nuối tiếc tình yêu, luyến tiếc người yêu cũng thật là sâu nặng khiến anh không đành dứt.
Tâm trạng rối bời, đầy mâu thuẫn đó là của một người vừa có tình yêu tha thiết, thuỷ chung vừa có tâm hồn trong sáng, lành mạnh; vừa hít thở không khí thấm đẫm luật lệ nghiêm khắc của cộng đồng, vừa khao khát một tình yêu tự do.
Đâu phải ngẫu nhiên, trong 1846 câu thơ của tác phẩm Tiễn dặn người yêu chí’ có hơn bốn trăm câu tiễn dặn nhưng nội dung đó lại được lấy để đặt tên cho cả truyện thơ này. Bởi chủ đề tiễn dặn đã thấm đẫm trong từng câu của truyện thơ và lời tiễn dặn là lời hay nhấí, cảm động và thể hiện sâu sắc nhất màu sắc văn hoá dân tộc Thái. Trong truyện thơ có hai lần chàng trai tiễn biệt và dặn dò cô gái: Lần đầu trên đường anh tiễn cô về nhà chồng và lần thứ hai khi anh phải chứng kiến cảnh nhà chồng đánh đập, hành hạ cô.
Hai lời tiễn dặn trong hai hoàn cảnh khác nhau, vì vậy mỗi lời mang một sắc thái riêng của tình cảm và tâm trạng nhân vật. Lời tiễn dặn ờ phần đầu nổi bật một chữ đợi và lời tiễn dặn ở phần sau là một chữ cùng. Lời dặn dò đó cũng là lời hẹn ước của chàng trai.
Trên đường tiễn người yêu về nhà chồng, chàng trai dặn dò cô hết lời hết lẽ. Nhưng những lời dặn dò được nhắc đi nhắc lại nhiều nhất chính là “đôi ta yêu nhau”, “đợi nhau”. Thời gian chờ đợi được tính bằng mùa vụ của cây cối, của tự nhiên : đợi đến tháng năm lau nở, đợi mùa nước đỏ cá về, đợi chim tăng ỉó hót gọi hè,… Bước đi của thời gian không tính bằng ngày, giờ mà được diễn tả bằng những hình ảnh không gian quen thuộc, bình thường, thuần phác, gắn bó với cuộc sống dân tộc : tháng lau nở, đợi mùa nước đỏ cá về, chim tăng ló hót gọi hè,… những hình ảnh quen thuộc đó đã phần nào phác hoạ tình cảm chân thực, mộc mạc, bền chắc của chàng trai. Không những thế, thời gian chờ đợi còn được tính bằng cả đời người : không lấy được nhau mùa hạ, đợi lấy nhau mùa đông ; không lấy được nhau thời trẻ, đợi lấy nhau khi goá bụa về già… Mùa hạ, mùa đông là ẩn dụ chỉ thời gian của tuổi trẻ và tuổi già, ẩn dụ về thời gian trôi chảy, đổi thay. Đông qua, hè tới rồi lại đông qua… đời người là những mùa hè, mùa đông đó. Nhưng dù hè hay đông, dù trẻ hay già, thời gian có đổi thay thì có một điều không hề thay đổi, đó là tình yêu của hai người. Nhắc đến sự biến đổi của thời gian, của mùa vụ, của muôn vật ở đây lại là để làm rõ thêm một sự đối lập, làm chắc chắn thêm một tình cảm không gì có thể íhay đổi, đó là tình yêu của anh đối với cô.
Tuy nhiên, “đợi” có nghĩa là chấp nhận thực tại không thể gần gũi, gắn bó; “đợi” nghĩa là chỉ còn hi vọng ở tương lai. Lời dặn dò đó thể hiện tình nghĩa thuỷ chung, tình yêu sâu sắc, bất tử của chàng trai, đồng thời cũng thể hiện thái độ bất ỉực, đành chấp nhận tập tục, chấp nhận cuộc hôn nhân do cha mẹ hai bên định đoạt.
Theo phong tục chất phác và giàu nhân văn của người Thái, nếu hai người yêu nhau mà không lấy được nhau, họ sẽ thành anh em bè bạn, gần thì thỉnh thoảng thăm nhau, xa xôi thì hằng năm có những phiên “chợ tình”, họ tìm về chơi chợ, gặp gỡ chia sẻ vui buồn cùng nhau, rồi ai nấy lại quay về chăm lo cho gia đinh, con cái, cho cuộc sống năm này sang năm khác không mấy an nhàn của mình. Chàng trai trong truyện thơ tiễn người yêu về tận nhà chồng, ở lại đó một thời gian, dặn dò cô “hết lời hết lẽ” để mong cô thành người dâu thảo theo chuẩn mực của người phụ nữ Thái:
Bậc thang cuối nhà chồng chớ ngồi,
Ghế chị chồng ngồi chớ đụng,
Giã gạo đừng chửi lợn,
Chưn lợn đừng chửi gà…
Anh dặn dò cô ứng xử theo những phong tục giàu nhân văn đó của dân tộc, điều này càng chứng tỏ anh chu đáo và có tình cảm rất lành mạnh trong sáng, không vì mất người yêu mà “giận cá chém thớt”. Nhưng trong thời gian ở đó, anh chứng kiến cảnh cô bị gia đình chồng hành hạ, bị coi rẻ, bắt làm quần quật mà chẳng cho ăn, bị đánh ngã dúi dụi:
Em ngã lãn chiêng cạnh miệng cối lợn dũi,
Em ngã lăn đùng liền bên máng lợn vầy,
Ngã không kịp chống kịp gượng.
Dường như sự hành hạ về cả thể xác lẫn tinh thần khiến cô gái vốn xinh đẹp “Ngón tay thon lá hành, đôi mắt đẹp dài như lá trầu xanh…”, có tình yêu trong sáng, hồn hậu đã thành con người khác, câm lặng, vô cảm dưới những trận đòn roi, hắt hủi ở mọi nơi mọi lúc của chồng và gia đình chồng. Tinh cảnh đáng thương đó là tiếng kêu cứu không lời về quyền sống của người phụ nữ, gợi nỗi thương cảm xót xa đối với người nghe.
Còn chàng trai, anh bị đặt vào hoàn cảnh thật trớ trêu, đau khổ. Yêu mà không thể lấy được nhau, hơn nữa, yêu mà phải bó tay nhìn người yêu bị đánh đập, hành hạ. Thương cô, anh càng săn sóc cô hơn bằng lời lẽ và cả bằng hành động sẻ chia : dậy đi em, đầu bù anh chải cho, tốc rối anh búi hộ, lam ống thuốc em uống khỏi đau,… Trong lời nói đầy săn sóc ân cần đó còn ẩn chứa nỗi xót xa, đau đớn dường như hơn cả nỗi đau mà cô gái phải chịu. Yếu tố tự sự đã kết hợp chặt chẽ với yếu tố trữ tình, lời yêu thương chứa đầy cảm xúc khiến câu chuyện có sức biểu cảm lớn. Lời truyện thơ Tiễn dặn người yêu (xống chụ xon xao) mượn rất nhiều từ kho tàng ca dao dân tộc Thái với những câu hát “Tản chụ xống xương” (lời yêu thương hát tiễn người yêu) và “Tản chụ xiết xương” (lời yêu thương dành cho người yêu).
Những hình ảnh và lời thơ ấy ỉàm cho ngôn ngữ truyện thơ gần gũi, quen thuộc với sinh hoạt dân gian đồng thời rất đậm tính chất trữ tình. Lời chàng trai cũng là lời truyện thơ, lời các tác giả dân gian Thái, thấm nhuần tình cảm nhân đạo, đầy yêu thương, thông cảm với số phận của cô gái cũng như của những người phụ nữ Thái xưa.
Đó cũng là tình cảm dẫn đến lời tiễn dặn của chàng trai ở phần hai của đoạn trích. Nếu lời tiễn dặn ở phần đầu nổi bật một chữ ĐỢI, thì lời tiễn dặn ở phần sau nổi bật chữ cùng với mong muốn cùng nhau thoát khỏi tập tục để gắn bó.
Cùng với tình cảm xót thương, anh muốn phá tung sợi dây trói buộc của tập tục, để cùng người yêu sống chết bên nhau. Trong nguyên bản tiếng Thái có đoạn:
Tai xam pi lón cãng mũ hỏi
Tai xáp xỏi pêtĩ nậm tạng cóp mã kin
Tai pêiì đin pukpũ mã kẹo
Tai pên hẻo chí xôn hồm nong,
Tai pêìì chong lính chuỗỉì huồni thuổi,
Tai puối xâu xóp ỉ ẹo chắng chí hưỡtì điêu.
“Tai” dịch sang tiếng Việt là “chết”, “tai pên” là “chết thành”. Hình ảnh cái chết được lặp lại sáu lần, cũng là sáu lần anh khẳng định sự gắn bó. Không thể sống xa nhau, hãy sống cùng nhau cho đến chết, dù phải chết cũng nguyện được chết cùng nhau. Cái chết là sự thử thách tột cùng đối với con người, những tình yêu nhỏ bé, vị kỉ không thể vượt qua cái chết, nhưng tình yêu mãnh liệt và trong sáng của anh vượt qua cả thử thách đó. Nói đến cái chết chính là nói đến khát vọng mãnh liệt được sống cùng nhau. Điệp từ chết được lặp đi lặp lại nhiều lần, vừa là lời dặn dò người yêu không quên mối tình cũ, vừa thể hiện thái độ dứt khoát của chàng trai cùng sống chết bên cô. Tuy hai lời tiễn dặn ở hai hoàn cảnh khác nhau, nhưng cả hai lời đều thể hiện tình yêu sâu sắc, thuỷ chung và quyết tâm vượt mọi trở ngai để gắn bó.
Nguyên nhân sâu xa của sự chia li và những nỗi đau khổ của chàng trai, cô gái trong truyện thơ chính là tập tục hôn nhân gả bán, cha mẹ có quyền định đoạt duyên phận cho con cái. Vì vậy, những lời tiễn dặn đầy đau khổ của họ cũng là những lời tô cáo, phản kháng tập tục hôn nhân Thái xưa, tập tục đã bóp chết tình cảm yêu thương tự nhiên của con người, khiến cho họ phải suốt đời đau khổ.
Trong lời tiễn dặn có một mong muốn được nhắc lại nhiều lần, đó là mong được “cùng chết” với người yêu của chàng trai. Điều đó chứng minh cho tình yêu nồng nàn, mãnh liệt của anh, cũng chính là thái độ phản kháng lại hoàn cảnh. Xã hội không đê cho những người yêu nhau được sống bên nhau, họ chỉ còn hi vọng được chết cùng nhau, đó là một xã hội bất công, vô lí, cần phải thay đổi.
Chàng trai đã có lúc từng mong ước “Ta ước cánh ta như cánh ve vằng - Bay muôn phương tìm xem thử mệnh nàng - Mệnh nàng xa ta một sải hay xa ta một với - Xa một sải ta với liền một với - Xa một với ta với liền một gang - Xa một gang đôi mệnh dính liền”; cũng có lúc anh phẫn nộ: “Không lấy được em anh làm loạn giữa phủ - Không lấy được em anh làm loạn giữa mường”, nhưng mong ước mãnh liệt và thái độ phẫn nộ ấy lẻ loi, yếu ớt giữa cộng đồng. Anh vẫn phải chấp nhận tập tục, sống theo hoàn cảnh, vẫn phải tiễn người yêu về nhà chồng rồi quay về lấy một người vợ khác, chỉ còn hi vọng “sẽ lấy nhau khi goá bụa về già”. Khát vọng tự do yêu đương, mong muốn tha thiết được sống chết với người yêu đành gửi vào những lời tiễn dặn. Vì vậy, lời chàng trai tiễn dặn người yêu cũng đồng thời thể hiện khát vọng tự do yêu đương, khát vọng được giải phóng, được sống trong hôn nhân hạnh phúc của các chàng trai cô gái Thái:
Yêu nhau, yêu trọn đời gỗ cứng,
Yêu nhau, yêu trọn kiếp đến già,
Ta yêu nhau tàn đời gió, không rung không chuyển,
Người xiểm xui, không ngoảnh không nghe.
Câu thơ gọn, chắc, nghệ thuật sử dụng từ láy có tác dụng khẳng định khát vọng tự do yêu đương và quyết tâm trước sau như một, không gì thay đổi của chàng trai. Khát vọng đó như được khắc vào gỗ, tạc vào đá.
Để tăng thêm khát vọng tự do yêu đương và tình yêu tha thiết, thuỷ chung của chàng trai, cô gái Thái, đoạn trích còn mượn rất nhiều hình ảnh thiên nhiên. Thiên nhiên đó vừa là những hình ảnh quen thuộc đối với nếp cảm, nếp nghĩ của người Thái, vừa góp phần thể hiện tâm tư, tình cảm, hoàn cảnh và tâm trạng của nhân vật truyện thơ. Hình ảnh so sánh tình yêu với độ bền vững của tự nhiên : vàng, đá, gió, trọn đời gổ cứng,… khiến cho tình yêu trở nên trường tồn, vĩnh cửu. Hình ảnh thiên nhiên và hình ảnh tình yêu hợp lại, đối sánh, cùng tôn nhau lên làm thành vẻ đẹp đặc biệt của lời thơ. Sự bền vững của tình yêu được đem so sánh với sự trường tồn của thiên nhiên và ngược lại, sự trường tồn vô cảm của thiên nhiên được tình yêu thổi vào chất thơ mộng, thành ra có hồn, trở nên hữu tình.
Tinh yêu vững như vàng như đá, như gỗ cứng, tàn đời gió không rung chuyển đôi thay,… Tình yêu đó tha thiết mà khônỉĩ bi luỵ, tiềm ẩn sự cứng cỏi, bản lĩnh mà không phô trương, mòn sáo.
Thiên nhiên trong đoạn trích khônơ chí thể hiện tâm trạng, tình cảm nhân vật mà còn thấm đẫm màu sắc dân tộc Thái. Suối, thác, rừng cà, rừng ỉ ủ ngón, mùa nước lũ, chim tăng ló gọi hè,… là những hình ảnh chỉ gắn liến với không gian miền núi, thể hiện tư duy hồn nhiên, độc đáo của đổng bào dân tộc thiểu số. Cách mượn thiên nhiên để diễn tả thời gian, diễn đạt tình cảm cũng rất đặc sắc : đợi đến thủng năm lau nở, đợi mùa nước đỏ cú về…, chết thành sông, chết thành đứt, chết thành bèo, bền chắc như vàng như đá, yêu trọn đời gỗ cứng…, tàn đời gió không rung không chuyển,… Lối diễn đạt này dường như chỉ có trong văn thơ các dân tộc thiểu số. Thiên nhiên ấy vừa hùng vĩ, vừa mộc mạc và giàu chất thơ, chất nhạc, tạo không khí vừa đặc sắc vừa thơ mộng cho truyện.
Kết thúc truyện thơ Tiễn dặn người yêu là sự trở về đoàn tụ trong hạnh phúc của chàng trai, cô gái sau bao trắc trở, sau thời gian lưu lạc đầy khổ đau. Đó chính là thắng lợi của tình yêu chung thuỷ, của tự do, đối lập với những luật lệ khắt khe, hà khắc trói buộc con người. Những kết thúc có hậu như vậy trong truyện thơ các dân tộc và truyện thơ Thái không nhiều, nhưng nó đã lạo được niềm tin tường, lạc quan, tiếp thêm sức mạnh cho những đôi lứa yêu nhau vượt qua trở ngại đê được sống hạnh phúc. Kết thúc đó đã rọi chiếu ánh sáng hi vọng và niềm tin vào cuộc sống vốn ảm đạm của đồng bào dân tộc Thái xưa. Đó là lí do khiến truyện thơ Tiễn dận người yêu được người Thái các thế hệ yêu quý và tự hào.