Top 10 Bài văn phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Tây Tiến (Ngữ văn 12) hay nhất
Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc. Nhưng Quang Dũng trước hết là một nhà thơ mang hồn thơ lãng mạn, tài hoa. Là ... xem thêm...nhà thơ của “xứ Đoài mây trắng”, thơ Quang Dũng giàu chất nhạc, chất họa. “Tây Tiến” là tác phẩm tiêu biểu nhất của hồn thơ Quang Dũng. Bao trùm bài thơ là nỗi nhớ của tác giả về thiên nhiên, con người miền Tây, về những người lính Tây Tiến anh hùng.
-
Trong chiều dài của lịch sử văn học dân tộc, có biết bao tác phẩm văn học đã đến với người đọc như một cơn gió nhẹ thoảng qua, chẳng để lại chút hương nào. Nhưng cũng có những tác phẩm đọc lên câu chữ cứ như in dấu ấn mãi trong lòng độc giả. Tây Tiến cũng là một trong những “thanh nam châm thu hút mọi thế hệ” như thế. Bài thơ có sức hấp dẫn kì lạ bởi những giá trị nghệ thuật độc đáo và giá trị nội dung sâu sắc.
Quang Dũng bước vào làng thơ cách mạng với bài thơ Tây Tiến. Như đã có sẵn một môi duyên ràng buộc, bài thơ ấy đã gắn bó với tên tuổi của tác giả suốt bao năm tháng. Tác phẩm là một trong những tiếng thơ tâm huyết nhất của đời thơ Quang Dũng và cũng là một “kiệt tác” của nền thơ ca kháng chiến chống Pháp.
Nói đến sức hấp dẫn của một tác phẩm là nói đến cái hay, cái đẹp riêng, cái độc đáo của tác phẩm đó. Và chính những giá trị nội dung và nghệ thuật là những thước đo tinh tế, chính xác cho sức hấp dẫn tác phẩm. Xuân Diệu đã từng định nghĩa: “Câu thơ hay là phải hay cả xác lẫn hồn”. Sức hấp dẫn của bài thơ phải được tạo nên từ sự hài hòa giữa nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Hai yếu tố ấy sẽ gắn kết với nhau để tạo nên một chỉnh thể văn học hoàn chỉnh mang giá trị thẩm mĩ cao. Bài thơ Tây Tiến có sức hấp dẫn mạnh mẽ trong lòng người cũng bởi tác phẩm có sự hài hòa, thống nhất giữa tư tưởng, nội dung và hình thức biểu hiện. Bài thơ không chỉ vẽ nên bức tranh thiên nhiên miền Tây vừa thơ mộng, thi vị, vừa hùng vĩ, hiểm trở hay tạc nên tượng đài người lính Tây Tiến mà còn thể hiện những tình cảm sâu kín trong lòng thi sĩ. Đó là tiếng thơ được bật lên từ một nỗi nhớ Tây Tiến da diết và xuất phát từ sự gắn bó máu thịt với một miền đất đã từng in dấu ấn những kỉ niệm chiến đấu của nhà thơ. Nội dung tư tưởng sâu sắc ấy đã được truyền tải qua một nghệ thuật đặc sắc với sự hài hòa của chất nhạc, chất thơ, chất họa, sự “tương giao” của bút pháp sử thi và cảm hứng lãng mạn, ngôn ngữ giàu chất tạo hình, giàu tính nhạc. Chính vẻ đẹp riêng, độc đáo trên đã làm nên sức hấp dẫn lâu bền của bài thơ Tây Tiến trong lòng người đọc.
Tây Tiến được viết khi nhà thơ đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian. Quang Dũng cũng là một thành viên trong đơn vị ấy. Đoàn quân Tây Tiến có nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào bảo vệ dải đất miền Tây. Có lẽ cũng vì đã sống và chiến đấu rất lâu trên mảnh đất ấy nên vẻ đẹp thiên nhiên miền Tây vẫn in đậm, khắc sâu trong tâm khảm nhà thơ. Vì thế khi viết bài này, hình ảnh thiên nhiên đã trở về trong hoài niệm của tác giả với vẻ đẹp vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng.
Dải đất miền Tây vẫn hoang vu, hùng vĩ, hiểm trở đã hiện lên rất chân thực trong bài thơ. Những câu thơ gọi tên các địa danh: “Sông Mã, Sài Khao, Mường Lát” đã vẽ nên một không gian rất cụ thể, chính xác. Những dòng thơ như muốn khắc họa những nét khái quát về vùng đất miền Tây. Người đọc có thể hình dung được địa thế ấy qua từng câu thơ:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Hình ảnh “sương lấp” đầy dữ dội, gây ấn tượng mạnh. Đó không phải là màn sương mong manh “chùng chình qua ngõ” của mùa thu như trong thơ Hữu Thỉnh mà đây là màn sương dày, phủ “lấp” không gian. Hình ảnh miền Tây hiện lên trong câu thơ thật mịt mù và dường như cái mệt mỏi của đoàn quân cũng lẫn vào sương. Câu thơ vừa tả cảnh, vừa gợi nên sự gian khó của đoàn quân Tây Tiến trong cuộc vạn lí trường chinh, vẻ đẹp hùng vĩ của miền Tây còn được cụ thể hóa trong những vần thơ:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Khổ thơ là một bằng chứng cho hiện tượng “thi trung hữu họa”, “thi trung hữu nhạc”. Chỉ bằng bốn câu thơ, Quang Dũng đã vẽ nên một bức tranh hoành tráng, diễn tả sự hiểm trở, dữ dội, hoang vu và heo hút của núi rừng miền Tây. Một loạt tính từ giàu giá trị tạo hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” đã diễn tả thành công sự hiểm trở và độ cao ngất trời của núi rừng Tây Bắc. Chỉ hai từ “thăm thẳm” nhưng đã vẽ nên trong tâm trí người đọc một hình ảnh rõ nét gợi một cảm giác choáng ngợp. Không phải là “cao chót vót” mà là “thăm thẳm”. Từ' “chót vót” chỉ gọi được độ cao, còn từ “thăm thẳm” lại tả được độ cao đến mịt mù như vượt khỏi tầm mắt. Đặc biệt, hình ảnh “súng ngửi trời” được nhà thơ sử dụng rất tài tình, giàu chất thơ. Câu thơ vừa tôn thêm độ cao vừa gợi vẻ đẹp tâm hồn của người lính. Họ mang tầm vóc sánh cùng đất trời, tâm hồn họ luôn yêu đời, tinh nghịch. Dòng thơ viết về sự gian khổ, vất vả, nguy hiểm nhưng không mang chút bi lụy nào. Đoạn thơ có nhiều thanh trắc khiến âm điệu câu thơ gân guốc, rắn rỏi. Đọc câu thơ, ta thấy như chính mình đang được trải nghiệm sự gồ ghề, hiểm nguy của địa thế. Nhịp thơ 4/3 kết hợp với điệp từ “dốc”, “ngàn” càng tô đậm độ cao, chiều sâu ngút ngàn của núi rừng miền Tây. Nhưng từ đỉnh cao “ngàn thước” ấy, tâm hồn người lính lại mở ra, phóng tầm mắt ra xa giữa ngút ngàn đất trời:
Nhà ai Pha Luông, mưa xa khơi Câu thơ toàn thanh bằng kết hợp với vần “ơi” ở cuối câu tạo cảm giác mênh mông, dàn trải lại vừa gợi lên một màn mưa sương mờ ảo. Từ “xa khơi” được lạ hóa rất tài tình. Nhà thơ đã dùng không gian biên đê gợi tả không gian rừng núi. Trước mắt người lính, cảnh được bao bọc trong một màn sương đẹp như một bức tranh lụa phương Đông mờ ảo, thanh nhã.
Đọc bốn câu thơ trên, ta cũng chợt nghĩ tới trường ca Từ đêm mười chín của Khương Hữu Dụng:
Đây cao vời vợi dốc Ông Mạnh
Đây ầm ầm đổ thác không tên.
Nhưng có lẽ những vần thơ nói về sự gian truân, hiểm nguy ấy không dữ dội, mạnh mẽ như trong Tây Tiến. Bức tranh miền Tây của Quang Dũng thật hùng vĩ, hiểm trở và cũng thật nên thơ.
Bức tranh thiên nhiên miền Tây còn khiến người đọc ngỡ ngàng trước vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng:
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Câu thơ với nhiều thanh bằng tạo âm điệu nhẹ nhàng, lan tỏa gợi nét riêng của miền Tây. Cảnh nửa thực, nửa hư mờ ảo. Từ “hoa về” được lạ hóa gợi nhiều liên tưởng: hoa nở hay ai đem hoa về? Hình ảnh “đêm hơi” cứ chập chờn lay động giữa các lớp nghĩa. Đó là đêm sương, đêm khỏi hay đêm hơi? Cảnh chơi vơi như sương, như hồn người lâng lâng. Câu thơ đẹp, huyền ảo, lung linh khiến cái “mỏi” của đoàn quân ở câu trên như tan biến. Nếu “thơ là nơi biểu hiện đầy đủ nhất, sâu sắc nhất ma lực kì ảo của ngôn ngữ” thì câu thơ này cũng đúng như vậy!
Không chỉ vẽ cảnh núi rừng hiểm trở, Quang Dũng còn khắc họa cảnh sông nước thơ mộng gắn liền với kỉ niệm chia tay:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ.
Câu thơ cũng hư ảo như chính cảnh vật thiên nhiên. Từ “chiều sương” gợi không gian dòng sông trong một buổi chiều giăng mắc một màn sương. Khung cảnh thiên nhiên tĩnh lặng như phảng phất một nỗi buồn man mác. Con sông ấy như chảy từ thời tiền sử, như mang nỗi niềm cổ tích của người xưa. Hình ảnh cây lau được đặt trong không gian xa vắng, mờ khuất “nẻo bến bờ” gây một ấn tượng đẹp trong lòng người. Hồn lau ấy phải chăng chính là điệu hồn người lính Tây Tiên hóa thân vào vương lại nơi đây hay đó là tình cảm tha thiết của đồng bào miền Tây gửi theo người lính Tây Tiến? Câu thơ khiến ta chợt nhớ đến ‘'hồn lau” - hồn thu trong thơ Chế Lan Viên:
Ngàn lau cười trời nắng
Hồn của mùa thu về
Hồn mùa thu sắp đi
Ngàn lau xao xác trắng.
(Lau mùa thu)
Phải chăng hồn lau đã gọi thức hồn thi sĩ khi tác giả giao cảm với cảnh?
Qua những ý thơ đẹp, các thi sĩ đã bất tử hóa một loài hoa trong lòng độc giả. Quang Dũng đã vẽ nên một bức tranh sông nước miền Tây lặng lẽ, u tịch. Đó chính là vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc mà sau này Nguyễn Tuân đã từng tô đậm trong Người lái đò Sông Đà. Cảnh đẹp vì thế mà có sức hấp dẫn trong lòng người.
Nhớ về Tây Tiến, trong hồi ức của Quang Dũng không chỉ ghi dấu bức tranh thiên nhiên đẹp mà còn in đậm vẻ đẹp của con người miền Tây. Đó là nét đẹp kì ảo của người thiếu nữ trong đêm liên hoan:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hôn thơ.
Đêm liên hoan văn nghệ hiện cùng vẻ đẹp của người thiếu nữ vừa hư vừa thực. Câu thơ lâng lâng dìu dặt như tiếng khèn đưa lòng người về một nơi rất xa. “Bừng lên” có cái gì như đột ngột, ánh sáng như chợt nhói lên làm cho cả đoạn thơ bừng sáng. Dường như trước khoảnh khắc “bừng lên” ấy, cả không gian núi rừng còn hiện một màn đêm mịt mù. Hai chữ “kìa em” thể hiện sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên xen lẫn với niềm thiết tha, trìu mến. Đó là ánh mắt người lính Tây Tiến đang say mê trước vẻ đẹp của người thiếu nữ. Trong ánh sáng lung linh của lửa đuốc, trong âm thanh réo rắt của tiếng khèn, cả cảnh vật và con người đều như ngả nghiêng, rạo rực, ngất ngây. Nhân vật trung tâm, linh hồn của đêm văn nghệ là những cô gái nơi núi rừng Tây Bắc bất ngờ hiện ra trong những bộ “xiêm áo” lộng lẫy, vừa e thẹn, vừa tình tứ, “nàng e ấp” trong những vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ đã làm hồn người lính Tây Tiến và cả hồn độc giả ngất ngây. Đó phải chăng cũng là biểu hiện của tình quân dân thắm thiết, “như cá với nước”? Tất cả làm thành “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”. “Xây hồn thơ” và xây luôn cả nỗi nhớ trong lòng người, để rồi người lính khi chia tay vẫn bâng khuâng thốt lên “nhớ ơi” và người đọc còn cảm nhận được mã sức hấp dẫn của bài thơ Tây Tiến.
Nhưng nổi bật nhất trong bức tranh Tây Tiến là hình ảnh người lính. Họ chính là trọng tâm của nỗi nhớ, của sức hấp dẫn trong bài thơ này. Người lính Tây Tiến hiện lên với hai vẻ đẹp hài hòa: vừa hào hùng, vừa hào hoa.
Tượng đài người lính Tây Tiến trong bài thơ hiện hữu một vẻ đẹp hào hùng. Vẻ đẹp ấy được nhà thơ khám phá và tái hiện trong tương quan với thiên nhiên hùng vĩ. Trong thơ cổ, con người thường hiện lên thật nhỏ bé, bất lực trước thiên nhiên rộng lớn:
Lom khom dưới núi tiều chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
Nhưng trong Tây Tiến, hình ảnh người lính lại hiện lên trong tư thế là chủ thể trữ tình. Trên cái nền dữ dội của thiên nhiên, người lính xuất hiện với vẻ đẹp thật hào hùng đầy chất bi tráng. Người lính đã vượt qua tất cả: sự hiểm nguy của núi rừng, thú dữ:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Câu thơ nói về những hiểm nguy với giọng điệu ngang tàng, coi thường, xóa đi sư bi lụy của cảm xúc ở câu trên. “Cọp trêu người” có một cái gì vừa nghịch rất lính vừa rất ngang tàng. Đó là vẽ đẹp của người lính Tây Tiến. Trên suốt hành trình của bài thơ, vẻ đẹp ấy cứ dần dần tỏa sáng:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùng.
Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể về người lính. Cái bi và cái hùng là hai chất liệu chủ yếu của bức tượng đài. Chúng hòa quyện với nhau để tạo nên vẻ đẹp bi tráng - cái thần thái chung của bức tượng đài. Từ “đoàn binh” gợi âm hưởng hào hùng mang màu sắc sử thi như gợi lên được cả khí thế xung trận mạnh mẽ của đoàn quân Tây Tiến. Chi tiết “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá” không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng mà chứa đựng dấu ấn của một giai đoạn lịch sử khi kháng chiến còn nhiều gian khổ, thiếu thốn “một viên pha uống được mười người” (Hùng Thanh). Cái vẻ xanh xao, bệnh tật ấy hiện lên qua cái nhìn của Quang Dũng lại toát lên cái oai phong, dữ dằn của những con hổ nơi rừng thiêng. Người đọc chợt nhớ tới những vần thơ của Chính Hữu:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.
Hay những hình ảnh thật cụ thể trong thơ Tố Hữu:
Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ.
Đó đều là hiện thực trần trụi của cuộc kháng chiến, nhưng trong thơ Quang Dũng, người đọc còn khám phá vẻ đẹp hào hùng của những người lính:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Tư thế lên đường của người lính đã in đậm vẻ đẹp hào hùng đến kì lạ. Từ “rải rác” gợi cảnh hãi hùng và thực tế là đã có bao người nằm xuống dọc đường chinh chiến - và đó là thực tế hiển hiện mà những người lính phải đối mặt. Câu thơ như thấp thoáng một cảm xúc xót xa, bi thương. Na-zim Hích-mét - nhà thơ cộng sản Thổ Nhĩ Kì - có nói: “Người ta có quyền buồn (...) nhưng không có quyền bi quan”. Đúng vậy, đọc thơ Quang Dũng, ta cũng thấy buồn nhưng không cảm thấy sự bi quan, yếu đuối. Bởi nhà thơ hiểu người lính ra đi với tư thế của một chiến sĩ anh hùng. Câu thơ vang lên như một lời thề mang khẩu khí của một bậc trượng phu và cái hùng tâm của nam nhi thời loạn. Đọc dòng thơ, người đọc thấy được thái độ đương đầu với mọi thử thách của người lính:
Tuổi xanh chẳng tiếc sá chi bạc đầu.
Vẻ đẹp kiêu hùng của người lính Tây Tiến được đẩy lên đến cực điểm khi nhà thơ nói về cái chết, sự hi sinh:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Cách nói giảm “về đất” thể hiện thái độ đón nhận cái chết một cách nhẹ nhàng, thanh thản của người lính. Nghệ thuật nhân hóa khiến sông Mã hiện lên thật sống động, thật có hồn: sông Mã như gầm lên khúc bi phân làm vang dậy núi rừng. Dường như vẻ đẹp hào hùng của người lính không chỉ được tạc vào thơ mà còn được hòa vào cảnh vật núi rừng.
Làm nên vẻ đẹp hoàn chỉnh cho hình tượng người lính Tây Tiến phải nhắc tới vẻ đẹp hào hoa của người lính, vẻ đẹp ấy được khắc họa trong sự giao cảm với cảnh vật và con người miền Tây. Và đặc biệt là qua nỗi nhớ rất lãng mạn:
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Nếu trong thơ Nguyễn Đình Thi, người ra đi luôn đem theo đôi mắt người yêu thì người lính Tây Tiến - những học sinh thủ đô lại mang theo mình một bóng dáng kiều thơm. Tâm hồn thoáng chút thơ mộng, lãng mạn phong tình ấy đã làm nên vẻ đẹp hào hoa cho hình tượng người lính. Nỗi nhớ của người lính Tây Tiến khác hẳn với nỗi nhớ mộc mạc, bình dị, “quê mùa” của Hồng Nguyên:
ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya.
Hay nỗi nhớ giản dị, đời thường trong thơ Chính Hữu:
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
Tựu trung lại, tất cả những vần thơ ấy đều bộc lộ tâm trạng, tình cảm, tình yêu của người lính.
Với con mắt mới, cái nhìn mới, cách thể hiện mới, Quang Dũng đã tạc lại hoàn chỉnh vẻ đẹp của người lính. Tình cảm riêng tư là động lực giúp người lính vượt qua mọi gian khổ, thử thách. Hình ảnh người lính Tây Tiến có sự hài hòa giữa bản chất chiến sĩ và thi sĩ. Chính điều mới mẻ ấy đã tạo nên sức hấp dẫn cho bài thơ Tây Tiến để thi phẩm ấy: "vẫn sống muôn đời với núi sông". (Giang Nam)
Đọc bài thơ, độc giả như được đứng giữa khung trời miền Tây, vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng bởi những nét phác họa của nhà thơ về con người, thiên nhiên đều rất gợi cảm, chân thực. Để có được nét vẽ rất thực ấy, nhà thơ phải có sự “xúc động hồn thơ” với những tình cảm rất chân thật. Bài thơ không chỉ là tiếng lòng của một người mà đã nói hộ tình cảm của mọi người, của những con người đã một thời kháng chiến oanh liệt. Đó là sự gắn bó máu thịt, là tình yêu đất nước sâu sắc của mỗi người. Trong tác phẩm, Quang Dũng đã phát huy triệt để, có hiệu quả nghệ thuật tương phản, bút pháp sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bài thơ còn minh chứng cho lời nhận định của Sóng Hồng “Thơ là thơ, đồng thời là họa, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng”. Quang Dũng cũng tiêu biểu cho khả năng chiếm lĩnh, sáng tạo những hiện thực còn bỏ ngỏ của người nghệ sĩ. Tây Tiến là một trong những bài thơ hiếm hoi tiên phong trong việc khám phá miền đất vùng phía Tây xa xôi. Bài thơ đã tìm được lối đi riêng để đi vào trái tim bạn đọc bao thế hệ! Qua bài thơ, những thế hệ cầm bút đi sau cũng có một bài học quý giá: Tài năng phải gắn với tâm hồn thỉ người nghệ sĩ mới có được những tác phẩm bất diệt.
Cái chết chỉ quỳ gối trước nghệ thuật chân chính. Bài thơ Tây Tiến cũng là một tác phẩm chân chính như thế. Với một sức hấp dẫn riêng, thi phẩm này sẽ mãi làm bâng khuâng mơ mộng ngàn thế hệ mai sau.
-
Kháng chiến chống Pháp đã đi qua, nhưng qua những vần thơ, bài hát, chúng ta vẫn có thể cảm nhận được một quá khứ đau thương nhưng hào hùng của dân tộc. Quang Dũng với tác phẩm "Tây Tiến" đã đưa vào văn chương kháng chiến một luồn gió mới. Thông qua việc phân tích bài thơ Tây Tiến, ta sẽ thấy được hình ảnh quả cảm, đau thương nhưng đầy mộng mơ của những người lính tri thức bấy giờ.
Bài thơ đã tái hiện được vẻ hùng vĩ, hoang dại, nguyên sơ nhưng cũng không kém phần thơ mộng của núi rừng Tây Bắc. Qua đó thể hiện nỗi nhớ da diết của nhà thơ đối với đơn vị Tây Tiến: Nhớ những chặng đường hành quân với bao gian khổ , thiếu thốn, hi sinh mất mát mà vẫn có nhiều kỉ niệm đẹp, thú vị, ấm áp; nhớ những đồng đội Tây Tiến anh hùng… Khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa và vẻ đẹp hùng vĩ thơ mộng của thiên nhiên miền Tây tổ quốc. Qua đó chúng ta thấy tình yêu thiên nhiên, sự gắn bó máu thịt với đoàn binh Tây Tiến của tác giả Quang Dũng. Chất lãng mạn bi tráng là vẻ đẹp độc đáo của hình tượng người lính cách mạng trong thơ Quang Dũng.
Giá trị nghệ thuật của bài thơ thể hiện ở dòng cảm xúc thiết tha, mãnh liệt. Ngôn ngữ giàu chất tạo hình và giàu tính nhạc với âm điệu, nhịp thơ biến hóa linh hoạt. Sự kết hợp hài hòa giữa giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn. Từ Hán Việt gợi lên âm hưởng cổ kính; những kết hợp từ độc đáo; những từ ngữ in đậm dấu ấn đời lính tạo nên tính chân thực, cụ thể, vừa sinh động vừa hấp dẫn.
Giọng thơ thay đổi theo dòng cảm xúc, khi tha thiết bồi hồi với nỗi nhớ vời vợi, khi bừng lên với đêm hội núi rừng, khi lắng lại trong kỉ niệm bâng khuâng, khi trang nghiêm, bi hùng gắn với hình ảnh những đồng đội một thời chiến đấu và hi sinh.
-
"Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác heo may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
Đất nước – Nguyễn Đình Thi
Nếu như ở đoạn thơ trên Nguyễn Đình Thi viết về khoảnh khắc lên đường chiến đấu của những chàng trai Hà thành thì ở bài thơ “Tây Tiến”, Quang Dũng sẽ là người tái hiện trực tiếp chặng đường hành quân đầy gian truân, vất vả đó của họ. Mà chỉ gọi Quang Dũng là nhà thơ thôi thì chưa đủ, bởi ông đa tài lắm, từ viết văn, làm thơ cho đến vẽ tranh, soạn nhạc. Đa tài là thế nhưng đời sống của ông vẫn luôn xoay quanh những câu chuyện bình dị, giản đơn. Độc giả biết đến tên tuổi của Quang Dũng qua những bài thơ nổi tiếng như “Đôi mắt người Sơn Tây”, “Đôi bờ” và có thể nói để lại nhiều ấn tượng sâu sắc nhất chắc chắn hẳn là bài thơ “Tây Tiến”. Nói như Chế Lan Viên thì “vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy”. Quang Dũng đã cầm bút đứng hiên ngang như thế trong mấy thập kỷ. “Tây Tiến” đã đưa tên tuổi ông vào hàng đầu các nhà thơ thời kỳ chống Pháp. Với một hồn thơ đôn hậu, lãng mạn, phóng khoáng và tài hoa, ông đã thành công trong việc khắc họa hình tượng nghệ thuật của người lính giữa núi rừng Tây Bắc, vừa bi tráng vừa lãng mạn vô cùng.
“Hành trình sáng tạo có thể là độc hành trong một giai đoạn nào đó, nó có thể chưa được tiếp nhận ngay nhưng chính sự độc đáo lại là cái còn mãi.” Vũ Quần Phương đã dành những lời này để nói về hành trình sáng tác thơ của Quang Dũng, bởi thơ ông được cho là chưa đủ tiêu chuẩn văn chương thép, chưa rắn rỏi như súng đạn nơi biên cương nên thời đó làm gì được cấp phép lưu hành. Ấy vậy mà vẫn được truyền lưu rộng rãi bởi chất liệu bên trong tác phẩm là một bức tranh chân thực, làm sao có thể ngăn được bước đi của nghệ thuật cho được. Quang Dũng tham gia đoàn quân Tây Tiến và làm đại đội trưởng từ đầu năm 1947 cho đến cuối năm 1948 thì phải chuyển đơn vị. Nỗi nhớ ngày một dâng trào và dòng cảm xúc mãnh liệt đã thôi thúc ông đặt bút sáng tác “Nhớ Tây Tiến” ngay trong đêm liên hoan mừng công tại Phù Lưu Thanh (Hà Tây). Về sau, bài thơ được chính tác giả đổi tên thành “Tây Tiến” và chính thức in lần đầu trong tập “Mây đầu ô” năm 1986. Ông đã giải thích với con trai mình là Quang Vĩnh về sự thay đổi này: “Tây Tiến, nhắc đến là đã thấy nhớ rồi. Thế nên để chữ nhớ là thừa, không cần thiết con trai ạ”. Đúng như thế, “Tây Tiến” nghĩa là đoàn quân tiến về phía tây, chỉ hai từ mà đã làm sống dậy cả một khúc quân hành, cô đọng hơn nhiều, nỗi nhớ da diết hơn nhiều.
Phần đầu của tác phẩm là nỗi nhớ của Quang Dũng về những cuộc hành quân gian khổ gắn với thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội. Nhắc đến Tây Tắc ta lại nhớ đến cuộc vận động văn nghệ sĩ năm nào dùng ngòi bút mở đường tìm thắng lợi, ghi dấu bao chiến công oanh tác của quân đội ta. Và thế là Quang Dũng mở đầu một lời gọi tha thiết:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”.
Nỗi nhớ day dứt ấy đã nhanh chóng được khái quát qua địa danh sông Mã, hay còn được gọi là sông La, con sông như một dòng chảy xuôi ngược kí ức chảy qua Hòa Bình, Sơn La, Thanh Hóa. Một cái cớ vô cùng duyên dáng để Quang Dũng khơi gợi tâm tư của mình, bao nhiêu kỉ niệm cùng đồng đội cũ, bao giọt nước mắt ly tan hay vỡ òa thắng trận đều từ đó mà ra. Tiếp tục với một tâm hồn hoài niệm, điệp từ “nhớ” lúc này phát huy cực điểm tác dụng chính của mình là bộc lộ nỗi nhớ, ta có thể hình dung về những tháng ngày cùng đồng đội vào sinh ra tử của tác giả khiến cho nỗi nhớ kia ngày càng thêm cháy bỏng, da diết đến quặn lòng. Rừng núi Tây Bắc vừa bí ẩn, hoang vu vừa lãng mạn trong đôi mắt nghệ sĩ trẻ, “nhớ rừng núi” cũng chính là nhớ về những gương mặt sát cánh trên con đường hành quân, là nhớ về Tây Tiến. Từ láy “chơi vơi” đặt cuối câu thơ là một sáng tạo độc đáo, nỗi nhớ không cạn, cũng chẳng tận trời cao, cứ “chơi vơi” lơ lửng, huyền ảo như một làn sương hoài niệm chẳng lúc nào tan biến. Xuân Diệu cũng từng tận dụng từ láy đắt giá này trong bài Nhị Hồ:
“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”
Nhị Hồ – Xuân DiệuLà một sự sắp xếp khéo léo hay tình cờ mà điệp vần “ơi” trong các tiếng “ơi”, “chơi”, “vơi” “hơi” cùng tạo ra một âm hưởng mênh mang như càng thêm mở rộng chiều kích cho nỗi nhớ. phải chăng là một khúc ca mà lữ khách tốn bao nhiêu tâm tư để mời gọi, hãy vào đây, hãy nhìn đồng đội thân yêu của tôi đi, họ đã mạnh mẽ chiến đấu đến chừng nào. Nỗi nhớ càng được khắc họa cụ thể ở hai câu thơ sau”
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Tác giả liệt kê các địa danh “Sài Khao”, “Mường Lát” để người đọc gần xa ít nhiều thấy được vẻ heo hút, hoang vu, bí ẩn của vùng đất lạ, thấy được những khó khăn, thử thách chờ chực, ý chí người lính ra sao. Hình ảnh tả thực “sương lấp” và “đoàn quân mỏi” cho ta thấy bao vất vả mà đoàn quân Tây Tiến đã phải chịu, họ hành quân trong sương mù lạnh giá, sương giăng che lấp cả đoàn như phủ lên những tâm hồn mỏi mệt một lớp chăn mềm mại, chỉ là sao khắc nghiệt quá, một chữ “mỏi” mà khiến bài thơ như có hồn tâm sự. Cũng bởi vì một chữ “mỏi” mà bao cuộc tranh luận xảy ra giữa những người cầm bút giành lại giá trị chân chính cho tác phẩm. Khắc nghiệt là thế nhưng “hoa về trong đêm hơi” lại là một hình ảnh lãng mạn biết bao. Có người nói “hoa” ở đây là hương hoa rừng còn vương vấn, có người lại cho rằng tác giả ví người lính là bông hoa thơm dịu, tinh khiết kia, kì thực có một chút không hợp. Nhưng nếu nói “hoa” trong bài thơ, là ánh sáng chập chờn, phập phồng của ngọn đuốc thì thực sự khiến hình ảnh thơ trở nên đẹp đẽ vô cùng. Đoàn quân trong đêm tối “đỏ đuốc từng đoàn” đi đến đâu tan sương đến đó, như những bông hoa đỏ trong đêm vượt màn sương nở rộ vậy. Một câu thơ mà vừa bi tráng, vừa lãng mạn, chỉ có thể là con triện riêng của Quang Dũng mà thôi.
Vậy là ở bốn câu thơ đầu, với âm điệu thơ sâu lắng, Quang Dũng đã kết hợp hài hòa chất hiện thực và lãng mạn, càng cho ta thấy được ngòi bút tài hoa, phóng khoáng của ông. Nói như nhà thơ Vân Long “Nhà thơ Quang Dũng như “bóng mây qua đỉnh Việt” và là một áng mây bay qua sống núi nước Việt. Mây Quang Dũng bay đến đâu, hoa lá cỏ cây và núi sông như có hồn theo đến đấy”. Con sông chiến trận qua ngòi bút Quang Dũng cũng trở nên có hồn như vậy đấy.
Những câu thơ tiếp theo được Quang Dũng tận dụng tất cả sự đa tài của mình để khắc họa địa hình hiểm trở của núi rừng Tây Bắc:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Đây là đoạn thơ được tác giả miêu tả rất thực về con đường hành quân đầy gian khổ. Ngang tầm với núi rừng hùng vĩ chính là tinh thần quả cảm của những người lính Tây Tiến. Điệp từ “dốc” kết hợp với từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” diễn tả sự quanh co, hiểm trở của địa hình Tây Bắc. Câu thơ bảy chữ mà đến tận năm chữ được gieo thanh trắc tạo âm điệu trúc trắc, gọi cho người đọc một thế núi cheo leo, gập ghềnh. Thậm chí chỉ cần đọc câu thơ lên đã hình dung hình ảnh người lính vất vả, từng hơi thở gấp gáp giữa sườn núi chông chênh. Từ láy “heo hút” ở đầu câu thơ thứ hai cho thấy sự hoang sơ, vắng vẻ cùng cảm giác bí ẩn, dường như ta có thể cảm nhận âm vang núi rừng từ bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ. Đảo ngữ một cách khéo léo đã giúp cho núi Tây Bắc được vẽ ra với khung cảnh đậm chất hùng vĩ, đỉnh núi cao đến mức ngập vào những cồn mây trắng như ngọn đuốc hiên ngang phía sau tàn sương mà chiến đấu vậy. Tác giả sử dụng hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời” góp phần tạo thêm sự thú vị cho bài thơ, vừa có thể thấy được độ cao chót vót, vời vợi của ngọn núi mà cùng vừa thấy được sự tinh nghịch, dí dỏm đặc trưng của Quang Dũng – một người lính lạc quan, hài hước.
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Điệp ngữ “ngàn thước” cũng là hoán dụ ước đoán phỏng chừng đã gợi sự vô cùng, vô tận của thế núi. Hai vế tiểu đối trong câu thơ đã vẽ ra một sườn núi dốc dựng đứng, lên tận cao vót và đổ xuống rất sâu, bao nhiêu là nguy hiểm, bao nhiêu là gian khó. Thế núi đang “khúc khuỷu” là thế, vậy mà nhìn lưng chừng sườn núi, “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, câu thơ trải dài toàn thanh bằng mở ra một không gian xa và rộng. Tưởng chừng như đang đứng ở một vách núi đưa mắt về phía xa, trong màn sương lại ẩn hiện thấp thoáng những ngôi nhà sàn. Cảnh tượng phút chốc lại trở nên lãng mạn biết bao, đâu còn những khung cảnh trần trụi tàn khốc nữa. Đây cũng là một trong những bằng chứng thi trung hữu họa vô cùng đắt giá của Quang Dũng.
Như vậy, bốn câu thơ phối hợp hài hòa đã vẽ ra một bức tranh sinh động về con đường hành quân của những người lính. Cách gieo thanh bằng trắc và sắp xếp gam màu nóng lạnh đã gợi ra những nét vẽ gân guốc, mềm mại xen kẽ. Khổ thơ nhờ vậy mà được xoa dịu, đây không hẳn là che giấu đi hiện thực tàn khốc mà là lấy cái nhìn lạc quan, tâm hồn phiêu lãng của đời trai trẻ để tiến ra chiến trận.
Thế nhưng, dẫu có lạc quan đến mấy cũng không thể nào phủ nhận một sự thật tàn khốc của chiến tranh:
“Lúc nào tôi cũng nghĩ một ngày
Bỏ súng về ôm những gốc cây
Tìm hốt hết thịt xương đồng loại
Ôm thật đầy trên những cánh tay”
Trong đêm mưa tiền đồn – Nguyên Dương QuangLà những mất mát, hi sinh, là những lần chia ly âm dương chẳng dám hẹn, nước mắt chực rơi nhưng phải “trừng mắt” nhìn về phía trước. Và Quang Dũng đã dành những cảm xúc chân thành nhất để viết:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Hai tiếng “anh bạn” nghe sao thân thương mà chua xót quá, những đồng chí mới vai kề vai mà quay đi nhìn lại đã chẳng còn nữa. Từ láy “dãi dầu” kết hợp với hình ảnh hoán dụ “không bước nữa” để giảm đi sự đau thương của những người lính. Đồng đội vừa đập vai, bôi thuốc, vừa chia nhau bát cơm đang dần ngã xuống. Các anh biết đồng đội mình mạnh mẽ lắm. Vậy nên dẫu có ngã xuống cũng sẽ ở một tư thế hiên ngang nhất: “Gục lên súng mũ”, tim đã ngừng đập nhưng tâm hồn dành cho núi song vẫn còn đó. Anh đã quỳ xuống, ôm súng trong tay, đưa mắt hướng về đồng đội lần cuối. Bom đạn mù mịt che đi những người mà anh yêu quý. Cách nói giảm, nói tránh vốn dĩ đã làm giảm bớt sự buồn đau của sự việc, thế nhưng vẫn giữ được đúng tinh thần thép của những người lính. Khi họ dứt áo ra đi là đã gạt tình yêu riêng sang một lối nhỏ, toàn tâm toàn ý cho tình yêu đất nước. Câu thơ của Quang Dũng đã diễn tả đúng chất của âu “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Như vậy, hiện thực thê lương đâu còn nữa, nay chỉ còn khí thế hào hùng trong bức tranh đầy bi tráng mà tác giả vẽ lên thôi. Lê Anh Xuân cũng có những câu thơ:
“Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”
Dáng đứng Việt Nam
Ngọn lửa hào hùng trong thơ văn chưa dừng lại ở đó, đồng đội anh chết nhưng động đội vẫn tồn tại còn đang chiến đấu. Hành trình chưa bao giờ kết thúc:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Các từ láy “chiều chiều”, “đêm đêm” cho thấy chuỗi ngày dài mà bộ đội đối mặt với gian nan nơi rừng núi Tây Bắc. Chiều cho đến đêm là lúc màn sương bắt đầu bao phủ, trời cứ thế tối dần mà không biết dưới chân mình là gì. Nhất là “tháng chạp màn sương trùm Đất Nước”, nguy hiểm chồng chất nguy hiểm, thế mà: “thác gầm thét” thử thách nỗi sợ của con người. Địa danh Mường Hịch được tác giả khéo léo đưa vào câu thơ, hai tiếng nặng trịch như tiếng chân hổ bước trong đêm. Hiện thực “hiểm ác” lại một lần nữa được nhà thơ xoa dịu bởi câu thơ tiếp theo, câu thơ mang nặng tình nghĩa của người dân Tây Bắc.
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Phép đảo ngữ “nhớ ôi Tây Tiến” bao gồm từ cảm thán đã nhấn mạnh sự hoài niệm mãnh liệt về một vùng đất tình người. Hình ảnh ảnh cơm lên khói vừa chân thật vừa trữ tình, cùng với mùi hương “thơm nếp xôi” của vùng đất Mai Châu đã khắc họa tình quân dân vô cùng ấm áp. Nhắc đến tình quân dân thì có lần Quang Dũng chứng kiến người mẹ Hòa Bình tự vắt sữa mình cho đồng đội anh uống, đồng đội anh lúc ấy bị thương khá nặng. Hóa ra những người lính như Quang Dũng cầm súng trên tay để bảo vệ những điều bình dị như thế. Tác giả đã vô cùng sáng tạo khi khi dùng từ “mùa em” đây là một từ từ ghép độc đáo gợi nét trẻ trung, thể hiện tình cảm của mình và đoàn quân Tây Tiến đối với những con người nơi đây.
Vậy là qua 14 câu thơ đầu với sự kết hợp hài hòa giữa ngòi bút hiện thực và lãng mạn, Quang Dũng đã thành công dựng lại cảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, cùng với đó là nỗi nhớ da diết về những ngày tháng vào sinh ra tử cùng đồng đội. Từ nỗi nhớ “chơi vơi” lưng chừng trong tâm trí giờ đây đã khẳng định “nhớ ôi Tây Tiến” là cảm xúc chủ đạo toàn bài. Qua đó, ta có thể thấy tinh thần của những người lính dẫu có “dãi dầu” hi sinh thì vẫn hi vọng ngày chiến thắng, vẫn kiêu hùng bước từng bước hiên ngang chẳng hề lo sợ.
Nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp đã từng nhận xét “Nếu như Chính Hữu viết về những chàng vệ quốc bằng bút pháp hiện thực thì Quang Dũng đã tái hiện vẻ đẹp của người lính bằng đôi cánh lãng mạn đem đến men say cho thi tứ, sự bay bổng của hình tượng. Nếu thiếu đi cái chất lãng mạn “Tây Tiến” cơ hồ sẽ mất đi vẻ đẹp toàn bích của nó”. Thật vậy nối tiếp bài thơ là nỗi nhớ của tác giả về đêm liên hoan văn nghệ vui với đồng bào và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo từ bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Động từ “bừng lên” là một chi tiết đắt giá khiến cho đêm tối mịt bỗng bừng sáng với những âm thanh vui tươi, sôi động. Một lần nữa hình ảnh “hoa” xuất hiện lần này là hoa chúc, hoa của ngọn lửa góp vui cho đêm văn nghệ. Đó là những tâm hồn lạc quan vì không biết ngày mai có còn tiếp tục được sống hay không nên cháy hết mình trong đêm. Linh hồn của đêm văn nghệ là những cô gái vùng sơn cước bất ngờ xuất hiện trong những bộ xiêm áo lộng lẫy. Hai tiếng “kìa em” cùng với câu hỏi tu từ “tự bao giờ” đã diễn tả tâm trạng bất ngờ phấn khích của những người lính, vừa ngạc nhiên, thú vị vừa tinh nghịch, đáng yêu. Một từ láy “e ấp” đã gợi ra nét thanh thoát e thẹn ngại ngùng của những cô gái trẻ. Tuy vui vẻ là thế nhưng những người chiến sĩ vẫn không quên nhiệm vụ của mình, nhiệm vụ thiêng liêng tiến về phía trước phối hợp với nước bạn bảo vệ biên giới Việt – Lào. Vì vậy mà “nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”. Giọng thơ trở nên vui nhộn, hóm hỉnh, trẻ trung nhưng không làm mất đi tinh thần khí phách của người lính.
Bức tranh miền Tây sông nước thơ mộng trữ tình của tác giả vẽ ra thật sinh động:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.
Một không gian mênh mông huyền ảo xuất hiện, chắc hẳn “chiều sương ấy” là một buổi chiều sương giăng với nhiều kỉ niệm. Ta có thể thấy khi đoàn quân ăn bước qua nơi này tâm họ đang lặng để nhớ về điều gì xa vời lắm, có thể là đồng đội vừa mất của họ, có thể là nỗi nhớ miên man về thời thơ ấu về một ánh mắt gieo bao tương tư chờ đợi. Điệp từ “có” và sự bắt vần giữa các tiếng “ấy”, “thấy” cùng những câu hỏi tu từ “có thấy” “có nhớ” cho ta biết nhà thơ đang đắm chìm trong sự hoài niệm. Trong hiện thực tàn khốc của chiến tranh vẫn luôn hiện diện những khoảng lặng như thế. Tác giả hỏi người nhưng thật ra là tự hỏi lòng mình tự nói với mình dùng câu hỏi để khẳng định. Quang Dũng đã xuất sắc để người đọc thấy được luôn có một nỗi nhớ thường trực trong tâm trí ông. Các cụm từ như “hồn lau”, “dáng người trên độc mộc”, “hoa đong đưa” đã làm bức tranh sinh động hơn hẳn. Độc giả có thể hình dung cả vạn bông lau phất phơ theo gió như có hồn người tiễn chân các anh ra trận. Phía xa là những cô gái Thái với dáng hình uyển chuyển mềm mại trên chiếc thuyền độc mộc vượt qua dòng lũ sông Mã. Từ láy “đong đưa” vô cùng duyên dáng đưa câu thơ trở nên có hồn hơn tình từ hơn. Hình như khung cảnh chiều lộng gió với những nét vẽ đơn sơ, thanh thoát luôn tạo cảm hứng cho Quang Dũng
“Lá tím lá xanh đường gọi nắng
Hoa vàng nhạt nhạt nhớ phiêu lưu
Lối đi khác khỏi lời chim nói
Ve vãn tương tư mảnh gió chiều”
Giang hồ – Quang Dũng
Như vậy, đoạn thơ miêu tả cảnh sông nước miền Tây đã mở ra trước mắt người đọc thế giới của cái đẹp của âm nhạc. Nói như Xuân Diệu thì đọc bài thơ Tây Tiến “ta có cảm tưởng như ngậm nhạc trong miệng”, chất thơ và chất nhạc được Quang Dũng hòa quyện khéo léo khiến ta cứ say trong một điệu du dương không cần người sướng. Nếu rơi vào cái vực ý thì thơ sẽ sâu nhưng rất dễ khô khan rơi vào cái vực nhạc thì thơ dễ làm say lòng người nhưng dễ nông cạn” (Chế Lan Viên). Và thơ của Quang Dũng thì vừa sâu vừa có ý vừa say cả nhạc.
Ở những câu thơ tiếp theo, chân dung người lính trên nền hùng vĩ, dữ dội lại càng thêm phi thường, bi tráng
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùng
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Đảo ngữ “Tây Tiến đoàn binh” để nhấn mạnh khí chất của đoàn quân trong hồi ức của nhà thơ, lại nhớ về những ngày đầu những anh lính nuôi dưỡng, quý mái tóc phi-lô-dốp của mình. Các anh vừa tắm vừa gội đầu, hãnh diện với mái tóc của mình lắm. Nhưng tại sao lại là “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”? Vì các anh còn xông pha chiến trận còn đánh giáp lá cà với bọn địch, các anh còn chịu rét mà rụng tóc. Hiện thực khắc nghiệt buộc những người lính đứng dậy với một diện mạo mới chẳng còn dáng vẻ thư sinh của chàng trai Hà thành nữa. “Quân xanh màu lá” cũng là một hình ảnh thực chỉ màu xanh lá ngụy trang trong lối đánh du kích của quân đội ta và cũng là màu da xanh xao của người lính chịu cơn sốt rét nhưng vẫn kiên cường.
Câu thơ vừa đối lập lại vừa ẩn dụ vẻ xanh xao trong mắt nhà thơ càng trở thành tựu văn cường bất khuất. Các anh chiến sĩ giờ đây mang trên mình một khí thế dữ tợn, oai phong của “chúa sơn lâm”. Cách so sánh này đã từng xuất hiện trong bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão
“Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
Bằng bút pháp tả thực Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh trần trụi khốc liệt về chiến tranh nhưng sự trần trụi ấy lại đậm tính lãng mạn. Có lẽ vì vậy mà ta vừa cảm thương vừa khâm phục những người lính vô cùng. Vẫn là theo mô tuýp bài thơ, sau khi dùng như ý thơ để tả hiện thực bi tráng thì đến tiếp theo là những câu thơ của một tâm hồn lãng mạn, tài hoa.
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Trong những ngày ngập chìm bom đạn khói lửa, những lần suýt chết trong gang tấc, tâm hồn họ lại nhạy cảm và mãnh liệt hơn bao giờ hết. Hình ảnh “mắt trừng” vừa là cách nói cường điệu của bút pháp lãng mạn vừa là hoán dụ. Người đọc có thể hình dung về người lính trong những đêm nhớ nhà, nhớ quê, họ trằn trọc với tấm chân tình đã phủ khăn từ rất lâu rồi, họ trằn trọc suy tư về con đường hành quân ngày mai. Mặt khác “mắt trừng” là cách thể hiện sự căm thù tức giận của người lính, họ có thể ngã xuống nhưng niềm hi vọng đánh tan giặc thì không bao giờ dập tắt được. Đều là những chàng trai Hà thành hào hoa lãng tử, họ đã quên đi mối tình chóng vánh mới nở ở quê nhà yêu dấu để bước chân lên đường chiến đấu. Phải đánh tan lũ giặc thì mới bảo vệ được người mình yêu, mới cho người mình thương cuộc sống tự do hạnh phúc. Ở nơi này “dáng kiều thơm” chỉ dám xuất hiện trong đêm mơ. Câu thơ có vậy mà đã gây ra bút chiến, lại nhớ nhà thơ Lưu Trọng Lư đã từng viết: “Người Đức họ không cấm thanh niên họ đọc Werther mà họ vẫn cường, người Anh họ không cấm thanh niên họ đọc Romeo et Juliette mà họ vẫn mạnh. Tôi dám chắc chỉ có những nhà nhân đạo mới tự cấm lấy mình thôi. Nếu cầm hết đi như vậy thì còn biết chi là cái hay cái đẹp ở đời” Hai câu thơ diễn tả tâm trạng rất thật của người lính trên đất Lào, họ gửi nỗi nhớ qua biên giới cũng chẳng chờ hồi âm chỉ mong chiến thắng.
Nhờ những nét tiêu biểu mà Quang Dũng chọn lọc thật kỹ lưỡng, đoạn thơ thứ ba đã khắc họa lên tượng đài tập thể của người lính Tây Tiến: vừa bi tráng lại vừa lãng mạn, nét bút không ngơi nghỉ mà tạo ra khí thế hào hùng. Nói Quang Dũng là một trong những nhà thơ hàng đầu thời kỳ chống Pháp Quả là không sai.
Hi sinh mất mát trong chiến tranh là điều hiển nhiên, cũng là một điều cấm kỵ trong giới làm nghệ thuật lúc bấy giờ. Ấy vậy mà qua “Tây Tiến”, lý tưởng quên mình đó không còn sự bi lụy, thê lương
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Có người nói cảm hứng của Quang Dũng đôi lúc sắp chìm vào trạng thái bi thương thì ngay lập tức được nâng đỡ bởi đôi cánh lý tưởng lãng mạn. Từ láy “rải rác” ở đầu câu thơ kết hợp với những từ Hán Việt như “biên cương” “viễn xứ” đã làm bức tranh nhuốm màu tang thương, một sự thật nghiệt ngã và đau lòng. Đối mặt với bom đạn tinh thần con người có cao đến mấy cũng chỉ tan xương nát thịt. Cuộc đời của những chàng trai trẻ mãi mãi bỏ lại nơi xa xôi. Dường như, họ đã phụ lòng chờ đợi của những người ở quê hương yêu dấu. Đảo cấu trúc “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” khiến cho giọt nước mắt bi thương kia được hong khô hẳn. Giờ đây chỉ còn tâm thế cầm chắc súng, hiên ngang sẵn sàng đấu tranh bảo vệ dân tộc. Hình ảnh hoán dụ “đời xanh” đã gây ra sự quên mình vì tổ quốc của người lính ở độ tuổi đẹp nhất họ cống hiến sức người thanh xuân của mình cho sự nghiệp của Tổ quốc. Đúng, đó chính là tinh thần trong câu “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Từ phủ định “chẳng tiếc” để khẳng định tầm vóc lớn lao lý tưởng cao đẹp của binh đoàn Tây Tiến. Sương giăng hay khói lửa cũng chẳng làm mờ đi hình tượng người lính. Tính phi thường trong câu thơ còn nằm ngay ở cái chết
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Nơi chiến trường trận mạc, những người lính nằm xuống cũng chẳng có tấm chiếu manh để che đậy. Tác giả gọi áo người lính là “áo bào” để bày tỏ sự kính trọng. Họ vẫn được xem như những vị quan thời xưa được “da ngựa bọc thây” khi tử trận nơi sa trường. Hiện thực tuy khắc nghiệt nhưng cái chết vẫn trang trọng qua vần thơ của Quang Dũng.
Nghệ thuật nói giảm “anh về đất” chỉ sự ra đi nhẹ nhàng và lý tưởng. Các anh chỉ trở về đất mẹ sau một kiếp rong ruổi đầy bụi trần mà thôi. Hình ảnh nhân hóa “sông Mã gầm lên” kết hợp từ Hán Việt “khúc độc hành” đã tạo ra một giọng thơ đang hào hùng bi ai bỗng ngay lập tức trở nên bi tráng. “Sông Mã cọp gầm”, ngay cả chúa rừng xanh cũng thương tiếc cho người lính, rừng thiêng sông núi như dâng một khúc ca hoành tráng để tiễn đưa vong linh người đã khuất càng làm cho khí thế đoàn quân thêm phần mạnh mẽ. Đồng đội của họ đã ngã xuống, họ phải tiếp tục chiến đấu vì lý tưởng vì quê hương, vì trả thù.
Bút pháp lãng mạn kết hợp với cảm hứng bi tráng đã giúp nhà thơ khắc họa chân thực cái chết của người lính vừa oanh liệt vừa hào hùng. Chân dung người lính qua câu thơ đã thể hiện nét phi thường từ diện mạo, tâm hồn cho đến khí phách. “Thơ là thơ đồng thời họa là nhạc là chạm khắc theo một cách riêng” (Sóng Hồng).
Ở đoạn thơ cuối cùng, tác giả mang đến lời thơ gắn bó với Tây Tiến dẫu chỉ bằng hồi ức:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Đoạn thơ mang nhiều ý nghĩa, song đảo ngữ “Tây Tiến người đi” để thấy tinh thần quyết chiến của người lính, đã dứt áo ra đi thì chẳng trông mong ngày trở về. Bởi “đường lên thăm thẳm một chia phôi”, từng mạng từng mạng cứ thế bị bỏ lại phía sau. Cái giá của chiến thắng thật sự quá đắt. từ láy “thăm thẳm” khiến ta bất giác rùng mình, lòng can đảm và quyết tâm phải lớn đến mức nào mới nói ra lời đanh thép như thế. Hoặc có thể thấy tác giả rời đơn vị cũng chẳng hẹn ngày gặp lại, đồng đội vẫn tiếp tục hành trình nhưng chẳng còn xuất hiện trong tâm trí nhà thơ nữa. Ông dùng sự dứt khoát để dồn nén nỗi nhớ, đại từ phiếm chỉ “ai” chỉ tinh thần quyết thắng của cả toàn quân. “Mùa xuân ấy” hẳn là mùa xuân thành lập, mùa xuân hi vọng chiến thắng của đoàn quân Tây Tiến. Dẫu phải xa đơn vị nhưng một lần cùng Tây Tiến đi về Sầm Nứa thì hồn cũng như tâm trí nguyện đi theo họ, chẳng cần trở về. Chỉ vài câu thơ ngắn ngủi đã tái hiện toàn bộ hành trình chiến đấu, giọng thơ lãng mạn mà kiêu hùng mấy thập kỷ, “Tây Tiến” vẫn luôn là một rương kho báu chờ người khai phá. Sự hấp dẫn lôi cuốn và những bí ẩn trong câu thơ vẫn còn mãi, nó khiến ta “dừng tay trên trang giấy đáng lẽ lật đi và đọc lại bài thơ một lần nữa”.
Nói tóm lại, Tây Tiến là bài thơ xuất sắc, đưa “tầm vóc của nhà thơ sánh ngang tầm chiến lũy”, cho thấy dấu triện riêng của Quang Dũng quả thật vô cùng đắt giá. Bản viết tay với những con chữ nguệch ngoạc trong đêm Phù Lưu Thanh vẫn còn nguyên, đó là những con chữ xuất thần mang cả hồn rừng núi Tây Bắc và những đêm ngày vất vả của người lính. Cuộc đời Quang Dũng bình dị như màn sương nhưng cốt cách và tinh thần ông lại như ngọn đuốc cháy trong đêm sương ấy vậy. “Hào khí của thời đại đã chấn động trong tâm hồn anh, và tiếng thơ riêng biệt của anh có phần âm vang của hào khí ấy”. Hiếm có một bài thơ nào vừa bi tráng vừa lãng mạn đến như thế, sau này chỉ mong những người khai phá con chữ nâng niu vần thơ ông một chút. Hãy bắt đầu từ nỗi nhớ, cả đời người nghệ sĩ ấy đều dành cho hồi ức, hồi ức về những năm tháng chẳng màng bão đạn, mưa giông. Cả đời là một khúc ca bi tráng, kiêu hùng…
-
Cuộc kháng chiến chống Pháp đi qua để lại những dâu ấn không thể phai mờ trong tâm hồn dân tộc. Đó là điểm hội tụ của muôn triệu tấm lòng yêu nước môi trường thử thách tinh thần chiến đấu ngoan cường, bất khuất của nhân dân ta. Cuộc kháng chiến còn làm nảy sinh biết bao hình ảnh đẹp mà đẹp nhất là hình ảnh người lính.
Bên cạnh những bài thơ nổi tiếng một thời như Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên, Tây Tiến của Quang Dũng là một thi phẩm đặc sắc Đoàn quân Tây Tiến quy tụ một lực lượng đông đảo đủ mọi tầng lớp thanh niên từ khắp phố phường Hà Nội. Có nhiều thanh niên học sinh thuộc tầng lớp trí thức tiểu tư sản vừa rời trang sách nhà trường để tham gia vào cuộc chiến đấu của dân tộc. Tất cả những con người ấy ra đi với lí tưởng chung của dân tộc là chiến đấu bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Họ ra đi không hẹn ngày trở về chiến đấu với mục đích “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” Cái ảnh thần ấy là hào khí của cả một thế hệ, đã từng được phản ánh trong một bài hát thời đó:
Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi,
Nào có sá chi đâu ngày trở về.
Trong đoàn người nô nức lên đường đi chiến đấu, trong hàng ngũ những thanh niên trí thức ngày hôm qua có khi là những tự vệ chiến đấu trên phố phường, chiến lũy Hà Nội, mà hôm nay đã có mặt trong đoàn quân Tây Tiến, thấp thoáng xuất hiện một khuôn mặt: Quang Dũng, tác giả của bài thơ. Như bao thanh niên trí thức của Hà Nội ngày ấy, Quang Dũng cũng háo hức gia nhập đoàn quân Tây Tiến với một niềm say mê của tuổi trẻ và một chút lãng mạn của những người thanh niên “nho sĩ quý tộc” ảnh hưởng trong Chinh phụ ngâm:
Dã nhà đeo bức chiến bào
hay
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.
Cũng chính vì thế mà những thanh niên như Quang Dũng sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, hi sinh để chiến đấu đến ngày thắng lợi cuối cùng. Vào Tây Tiến, Quang Dũng cùng sống và chiến đấu một thời gian với đơn vị này và sau đó chuyển sang đơn vị khác. Một ngày ngồi ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ về những người đồng đội, nhớ về những tháng ngày chiến đấu gian nan nhưng hào hùng, nhớ đơn vị cũ, nhớ những con đường hành quân mà ông cùng đơn vị từng đi qua. Nỗi nhớ ấy dần lớn lên trong Quang Dũng, bật ra thành hai câu thơ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Cuộc sống chiến đấu của Tây Tiến cùng những nơi mà đơn vị đã đi qua hẳn là những kỉ niệm hết sức sâu đậm trong tâm hồn nhà thơ. Hẳn một phần quãng đời Quang Dũng gắn bó với Tây Tiến là cuộc sống hoạt động trong vùng rừng núi. Bởi thế, nhà thơ nhớ về Tây Tiến là nhớ ngay về sông Mã, nhớ về rừng núi với bao kỉ niệm vui buồn, ấn tượng về một miền rừng núi khắc nghiệt đã để lại trong tâm hồn nhà thơ dấu ấn chẳng phai mờ. Vì thế, Quang Dũng nhớ về những tháng ngày đã qua với một tình cảm yêu thương lắm nhưng chẳng biết gọi lên chính xác nỗi nhớ ấy. Nhớ chơi vơi! hai liếng chơi vơi dùng ở đây thật là đắc địa, diễn tả một nỗi nhớ không có hình, không có lượng nhưng hình như rất nặng và mênh mang đầy ắp. Cái tâm trạng nhớ ấy ta đã bắt gặp không chỉ một lần trong ca dao:
Ra về nhớ bạn chơi vơi
hoặc:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi,
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than.
Quang Dũng lấy nỗi nhớ trong ca dao để tượng trứng thêm cho nỗi nhớ chơi vơi của mình, thật là chi tiết đắt giá! Ngay từ đầu bài thơ, ông đã miêu tả vùng rừng núi ấy thiết tha như thế làm cho người đọc chú ý ngay. Nhớ Tây Tiến, nhớ về sông Mã và núi rừng trùng điệp, nhớ con đường hành quân:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Con đường hành quân điệp trùng với bao cái khắc nghiệt, dữ dội của mỗi vùng rừng biên ải. Đọc đoạn thơ, chưa cần suy ngẫm nội dung bên trong, chúng ta đã có thể hình dung ra con đường mà Quang Dũng miêu tả. Kết cấu đoạn thơ cứ thanh bằng thanh trắc đan chéo nhau, trải dài ra miên man, vô tận như con đường xa thẳm khấp khểnh. Nhạc điệu êm ả, triền miên. Đoàn quân Tây Tiến đi trong lớp sương dày của núi rừng, tất cả lung linh trong lớp sương khói mờ ảo, như thực, như mộng. Thế nhưng, mỗi địa danh đều gợi lên trong người đọc về hình ảnh của một xứ lạ, phương xa; nếu ta chỉ thử thay Sài Khao bằng một tên gọi khác là lớp sương huyền ảo ấy tan biến ngay. Đoàn quân Tây Tiến cất bước , trên con đường xa vạn dặm, với cái trắc trở, gập ghềnh của con đường. Đã dốc lên khúc khuỷu mà còn dốc thăm thẳm, đã ngàn thước lên cao rồi lại ngàn thước xuống thì đúng là đến độ cao chất ngất, ngoằn ngoèo khó đi. Tất cả những đặc điểm ấy diễn tả nỗi khó khăn của đoàn quân Tây Tiến khi hành quân. Nó ghi lại ấn tượng về một miền rừng núi thật là dữ dội và khắc nghiệt. Quang Dũng có những cách dùng từ rất tinh tế mà cũng hết sức tinh nghịch: núi cao chạm mây nối thành cồn heo hút, và để diễn tả chiều cao của núi thì chỉ ba chữ súng ngửi trời nghe thật ngộ nghĩnh. Phải chăng đó là cách gọi của lính mà Quang Dũng ghi lại với tư cách một người trong cuộc? Dù sao, qua những từ ngữ, chi tiết và cách kết hợp thanh điệu của đoạn thơ cũng đã vẽ lên trước mắt ta hình ảnh một miền rừng núi mà đoàn quân Tây Tiến đã từng đi qua. Có những câu thơ dùng toàn vần bằng rất hay:
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Sau khi ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống người chiến sĩ Tây Tiến như đứng trên núi cao mà nhìn xuống thung lũng phủ kín trong màn mưa. Những ngôi nhà như đang trôi bồng bềnh trong làn mưa trắng. Thanh bằng của từng chữ trải ra, mênh mang, diễn tả cái màn mưa phủ giăng thung lũng. Rừng núi trùng, ấn tượng về miền rừng núi cũng thật là khắc nghiệt và dữ dội:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Chỉ hai câu thơ thôi mà gieo vào lòng ta tất cả những sự khắc nghiệt của miền rừng núi này - một miền núi rừng âm u với thú dữ đe dọa con người. Hai chữ Mường Hịch đi với nhau nghe nặng như chân cọp. Có một điều kì lạ là nếu ta thay địa danh này bằng hai chữ khác như Châu Thuận chẳng hạn, thì hiệu lực câu thơ sẽ giảm sút ngay. Qua sự miêu tả của Quang Dũng, một vùng núi rừng biên ải hiện lên với tất cả sự khắc nghiệt, dữ dội của thiên nhiên. Đó là những khó khăn mà người chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua trên con đường hành quân. Cái trắc trở, gian lao của con đường Tây Tiến chợt làm chúng ta nhớ đến câu thơ của Lí Bạch:
Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên.
(Đường xứ Thục khó đi, khó hơn lên tận trời xanh).
Đó là tất cả những gian khổ, nguy hiểm do thiên nhiên đem đến mà người chiến sĩ Tây Tiến phải chịu đựng.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ, bỏ quên đời!
Quang Dũng nói cái thực trên con đường Tây Tiến. Bao người chiến sĩ đã nằm lại trên con đường hành quân. Có một điều lạ làm toả sáng cả ý thơ là người lính Tây Tiến đến lúc gục xuống vẫn cố gắng trong tư thế của người lính, chết rồi nhưng súng mũ vẫn còn đó, hành trang của người chiến sĩ vẫn còn trong tư thế tiếp tục cuộc hành trình. Bao cảnh gian khổ khó khăn, khắc nghiệt dữ dội của con đường hành quân, của thiên nhiên xứ lạ đã thử thách người chiến sĩ Tây Tiến một cách ghê gớm. Có những người lính đã vượt qua được, và cũng không ít những người phải nằm lại phía sau. Người lính dãi dầu qua mưa nắng, đi từ khó khăn này đến gian khổ khác, chịu hết thử thách này đến thử thách thác mà dường như vẫn chẳng nể hà; đến khi kiệt sức phải gục xuống thì cũng cố gắng gục xuống trong tư thế của người chiến sĩ.
Cho dù Quang Dũng có nói sự thực về một vùng rừng núi che lấp con người, nhưng chính những phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ đã đưa họ bay lên, vượt lên trên cái gian khổ và thiếu thốn. Quang Dũng là một người trong cuộc, rừng là chiến sĩ Tây Tiến, chính vì vậy mà nhà thơ viết về cuộc sống gian khổ của người chiến sĩ Tây Tiến một cách hết sức cảm động. Cái khắc nghiệt, khổ và dữ dội của một miền biên ải, những gian truân mà người chiến sĩ Tiến phải chịu đựng và những ấn tượng không thể nào quên. Quang Dũng về người lính Tây Tiến không như những nhà thơ khác; ông nói thật về sự khổ, hi sinh của người lính một thời. Thế nhưng, hình ảnh anh bộ đội Tây Tiến không vì thế mà trở nên uỷ mị, ngược lại càng thêm cao đẹp hơn. Miêu tả nét chiến sĩ với cái bi, nhưng là “bi tráng”. Nói cái gian khổ để đề cao chiến thắng nói hi sinh để nâng hình ảnh người lính lên một tầm cao thời đại cũng là một cách “vẽ mây nảy trăng” trong hội hoạ vậy. Bởi chiến thắng có giá trị gì khi chiến thắng dễ dàng, không có hi sinh? Và hình ảnh người lính sẽ không thật cao đẹp nếu họ không trải qua những thử thách gian truân của cuộc sống chiến đấu khắc nghiệt.
Lao xao sóng vỗ ngọn tùng
Gian nan là nợ anh hùng phải vay.
Đó là một lời đúc kết kinh nghiệm về giá trị của chiến thắng, giá trị cả phẩm chất con người. Giữa bao cái gian khổ, khắc nghiệt đã thành ấn tượng niềm vui, dù ít ỏi, càng đáng nhớ hơn:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói....
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Dường như để trả trạng thái tâm hồn chúng ta về thế cân bằng sau khi chùng xuống trước cuộc sống chiến đấu của người chiến sĩ Tây Tiến, Quang Dũng hồi tưởng lại nhiều hình ảnh vui, ấm áp. Khói bếp, mùi thơm cơm nếp gợi cái ấm cúng của cuộc sống thanh bình, hạnh phúc. Sức nóng của nó đủ làm tâm hồn dần ấm lại sau những phút giây chứng kiến những gian khổ của người lính, đuốc hoa là hình ảnh có sức khơi gợi, gợi cho ta cái cảm giác tươi vui như đang chứng kiến lễ hội đông vui. Hai liếng kìa em vừa ngỡ ngàng, vừa sung sức nó diễn cả tâm hồn của người chiến sĩ Tây Tiến. Trong cả đoạn thơ dìu dặt thành tiếng nhạc, tiếng khèn, phảng phất hình ảnh vui tươi của cuộc sống ) bình như chẳng biết đến chiến tranh. Hình ảnh nhạc về Viên Chăn xây hồn là hình ảnh đẹp, thơ mộng, diễn tả tâm hồn phong phú của người lính Tây Tiến . Họ tổ chức hội vui, sau bao thử thách khắc nghiệt của núi rừng dữ dội. Và mặc dù biết rằng sẽ còn tiếp tục chịu đựng những gian truân, hi sinh, người lính Tây Tiến vẫn múa hát, đùa vui, vẫn lạc quan yêu đời. Có thể chỉ ngày hôm sau một người nào đó trong số họ phải nằm lại nơi núi rừng u tịch, nhưng hôm nay làm hồn họ vẫn mộng mơ, mơ đến những hình ảnh đẹp của thi và hoạ, xây hồn thơ. Và như vậy, họ sẵn sàng đón nhận mọi thử thách tiếp theo, coi đó như một việc bình thường mà đời lính phải chấp nhận. Không lên gân, không khiên cưỡng, mọi gian khổ hi sinh đối với người lính là chuyện bình thường và tất yếu, vì vậy mà họ vẫn lạc quan, vẫn yêu đời, vẫn sống với tâm hồn trẻ trung, tươi mát. Cũng vậy mà người lính Tây Tiến có thể vẫn nhớ một dáng thuyền độc mộc, hoặc một bông hoa trên dòng nước lũ. Những hình ảnh rất bình thường ấy, ngỡ rằng sau bao sự thử thách về tinh thần, người lính sẽ quên đi. Nhưng không, họ vẫn nhớ. Những hình ảnh ấy in sâu vào tâm hồn người lính Tây Tiến, là nguồn động viên thúc giục họ chiến đấu, dù tiếp tục đón nhận những thử thách mới:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm của đoàn quân không mọc tóc! Có cách nói nào lại khơi dậy nhiều cảm xúc đến thế! Như vậy thì hình ảnh của anh bộ đội Tây Tiến có trở nên quái đản không? Không đâu! Đó chính là hình ảnh oai hùng của anh “Vệ trọc” nổi tiếng một thời rét nên tóc rụng, vả lại, cái cách nói đoàn quân không mọc tóc ấy phần nào cũng dựng nên hình ảnh người tráng sĩ với dáng dấp thật hùng dũng và hiên ngang. Quân không mọc tóc, quân lại xanh màu lá, màu xanh ấy có thể do cành lá trang, nhưng chủ yếu là do sốt rét rừng. Những cơn sốt rét ghê gớm đã để lại ấn tượng sâu sắc cho người chiến sĩ. Ta cảm động trước hình ảnh người sĩ Tây Tiến, và gợi nhớ đến hình ảnh người chiến sĩ trong một số bài thơ đương thời:
Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật,
Đâu còn tươi nữa những ngày qua.
Người lính Tây Tiến cũng chịu đựng những cơn sốt rét ghê gớm ấy, thế nhưng, nó không làm nhụt đi ý chí của người chiến sĩ mà ngược lại họ càng chiến đấu dũng cảm hơn, kiên cường hơn, quân xanh màu lá nhưng vẫn dữ oai hùm. Cái khí phách hào hùng của người chiến sĩ Tây Tiến được ghi lại bằng sự so sánh cân bằng. Nếu ở khổ thơ trên, người lính chịu sự đe dọa của cọp thì họ cũng chiến đấu với tinh thần dũng cảm của một chúa sơn lâm như thế. Câu thơ sau nâng đỡ câu thơ trước vút bay lên như ánh hào quang của phẩm chất người lính Tây Tiến. Miêu tả khí thế chiến đấu hào hùng của người chiến thắng một sự so sánh như thế, Quang Dũng thực sự đã hiểu người lính và đã hòa đồng với họ. Chiến đấu dũng mãnh như thế, nhưng người lính Tây Tiến vẫn có đời sống tâm Hà Nội hết sức tinh tế:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Người chiến sĩ ra đi từ những mái trường, chiến đấu nhưng vẫn không quên hậu phương. Phía trước là trận đánh, tình cảm thể hiện qua giấc mộng, có thực, có mơ. Dáng kiều thơm gợi nên cái dáng vẻ yêu kiều của người con gái Thủ đô, chữ thơm được dùng với nghĩa như “sắc nước hương trời” vậy! Người chiến sĩ của Quang Dũng ra đi, mang theo cả phong thái hào hoa của người thanh niên trí thức, cái phong thái đã giúp người chiến sĩ sống bằng đời sống tâm lí phong phú sau mỗi trận đánh ác liệt.
Cái cuộc sống tâm hồn ấy là nguồn động lực giúp người lính tiếp tục chiến đấu để giành lấy độc lập, tự do cho Tổ quốc thân thương. Và cũng vì thế, người chiến sĩ chấp nhận sự hi sinh:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc trời xanh.
Cứ thử làm công việc tách hai câu thơ thành từng câu một. Ôi! Cái ấn tượng bi thảm đến vô cùng mà câu thơ đầu mang đến thật mạnh mẽ. Không hiểu sao, cứ mỗi lần đọc đên câu thơ này là tôi lại chìm vào trong suy tưởng và nước mắt cứ rưng rưng! Trên con đường gập ghềnh xa thẳm của miền núi rừng biên giới đoàn quân Tây Tiến cứ đi và thỉnh thoảng có những con người phải tách ra khỏi đội hình. Những nấm mộ của người chiến sĩ mọc lên. Câu thơ thật là bi thảm. Những câu thơ sau như một lực nâng vô hình, đã đưa câu thơ đầu lên cao, cái thảm giờ đây đã trở thành bi tráng. Nó bi tráng và hào hùng bởi Quang Dũng nói được một điều cốt lõi trong nhân cách của người lính: biết hi sinh, biết gian khổ nhưng vẫn cứ ra đi giải phóng quê nhà. Họ ra đi chẳng tiếc đời xanh, bởi quãng đời tươi đẹp ấy đã hiến dâng cho một lí tưởng cao đẹp: chiến đấu vì Tổ quốc. Họ ra đi và ngã xuống thanh thản không một chút vướng bận, cái chết được xem nhẹ tựa lông hồng:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Cách dùng từ áo bào của Quang Dũng làm cho câu thơ trở nên cổ kính, áo bào chứ không phải chiến bào; người chiến sĩ như những danh tướng thời xưa da ngựa bọc thây là một điều vinh quang. Cũng như thế, người lính coi việc hi sinh trên chiến trường là một nghĩa vụ thiêng liêng. Người chiến sĩ Tây Tiến ngã xuống và thanh thản về đất. Đất sinh ra anh và lại đón nhận anh về sau khi làm tròn nghĩa vụ. Anh về đất như một hành động tựu nghĩa của những anh hùng. Mở đầu bài thơ là hình ảnh sông Mã, kết thúc bài thơ vẫn là tiếng gầm thét của dòng sông này. Dòng sông tiễn anh ra đi chiến đấu lại đón anh về:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Quang Dũng khẳng định lại một lần nữa cái ý chí bất khuất ra đi là không trở lại. Đó cũng là ý chí quyết tâm của cả một thế hệ, của một thời đại.
Những gian khổ, hi sinh của cuộc kháng chiến là những kỉ niệm không thể quên. Sẽ không bao giờ còn có lại thời kì gian khổ đến mức ấy và cũng hào hùng đến mức ấy. Và cũng khó có thể có được bài thơ Tây Tiến thứ hai.
-
Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc. Nhưng Quang Dũng trước hết là một nhà thơ mang hồn thơ lãng mạn, tài hoa. Là nhà thơ của “xứ Đoài mây trắng”, thơ Quang Dũng giàu chất nhạc, chất họa. “Tây Tiến” là tác phẩm tiêu biểu nhất của hồn thơ Quang Dũng. Bao trùm bài thơ là nỗi nhớ của tác giả về thiên nhiên, con người miền Tây, về những người lính Tây Tiến anh hùng.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Trong tâm trí nhà thơ, Tây Tiến là một vùng đất đầy ắp kỉ niệm nên mở đầu bài thơ là tiếng gọi thể hiện nỗi nhớ tha thiết, bâng khuâng ; gợi nhắc một địa danh đong đầy bao kí ức của đời lính. Sông Mã là nỗi nhớ đầu tiên của Quang Dũng. Vì con sông Mã là người bạn, là nhân chứng đã theo suốt chặng đường hành quân, chứng kiến bao buồn vui, mất mát, hi sinh, vất vả của người lính Tây Tiến. Gọi tên Tây Tiến là gọi tên đồng đội, gợi nhớ bạn bè của một thời chinh chiến.
“Tây Tiến ơi!” – câu cảm vang lên là tiếng lòng da diết gắn liền với bao kỉ niệm thân thương về đoàn quân Tây Tiến. Nỗi nhớ đó vừa cụ thể vừa gắn liền với địa danh Tây Bắc: “nhớ về rừng núi” : vừa xa xôi vừa không định hình. Cụm từ “nhớ chơi vơi” tạo âm hưởng kéo dài, lan rộng, gợi mở một tâm trạng, cảm xúc vang xa đến mênh mông vô tận. Nghệ thuật sử dụng vần “ơi”, kết hợp từ láy “chơi vơi” là vần bằng tạo âm hưởng của tiếng gọi đồng vọng miên man không dứt. Điệp từ “nhớ” được nhắc lại hai lần góp phần tô đậm cảm xúc nhớ nhung dâng trào của tác giả. Đặc biệt là cách nói “nhớ chơi vơi”. “Chơi vơi” là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không rộng, không thể bấu víu vào đâu được. “Nhớ chơi vơi” có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, bề bộn, không đầu, không cuối, không thứ tự thời gian, không gian. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, bồi hồi làm cho con người có cảm giác đứng ngồi không yên.
Và nỗi nhớ ấy, tiếng gọi ấy đang đưa nhà thơ về với những kỉ niệm không quên của một thời gian khổ. Ta bắt gặp ở đó con đường hành quân đầy gian khổ nhưng thật trữ tình nơi núi rừng miền Tây hùng vĩ, thơ mộng. Liệt kê hai cái tên: “Sài Khao”, “Mường Lát” xa lạ, Quang Dũng như gieo vào lòng người đọc ấn tượng về một vùng đất xa xôi, hoang dã.
Hình ảnh “sương lấp đoàn quân mỏi” giàu sức gợi tả. Trên đỉnh Sài Khao, sương dày đến độ “lấp” cả đoàn quân. Chữ “lấp” là động từ mạnh gợi cảm giác về sự khắc nghiệt dữ dội của thiên nhiên. Đoàn quân đi trong sương lạnh giữa núi rừng trùng điệp. Chữ “mỏi” làm hiện lên trước mắt ta hình ảnh của một đoàn quân mệt mỏi, rã rời.
Tuy vậy họ vẫn thấy con đường hành quân thật đẹp và thơ mộng. Hình ảnh “hoa về trong đêm hơi” không chỉ gợi ra cái giá lạnh mà còn là một hình ảnh nên thơ. Đoàn quân Tây Tiến mất hút trong “sương lấp” rồi lại xuất hiện trong khung cảnh “hoa về trong đêm hơi” đầy lãng mạn. Chữ “hoa về” rất gợi, có thể là hoa đang nở, hương hoa đang dậy lên trong đêm; mà cũng có thể là bó đuốc trên tay người lính qua “đêm hơi” trở nên lung linh như hoa; cũng có thể hiểu – mỗi anh lính như những bông hoa đang về với bản làng.
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Điệp từ “dốc” cùng cách ngắt nhịp 4/3 của câu thơ “dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” tạo thành hai vế gợi cảm giác những con đường dốc nối tiếp nhau. Dốc cao dựng đứng hiểm trở, dốc tiếp dốc, trùng điệp. Những từ láy tạo hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” đặt trong câu thơ nhiều thanh trắc góp phần miêu tả cảnh hùng vĩ, đầy hiểm trở của núi rừng miền tây. Con đường hành quân qua dốc núi vừa gập ghềnh, trắc trở; vừa cao vừa sâu hun hút, con đường như dài ra theo bao nhiêu nguy hiểm khó khăn, vất vả với “cọp trêu người” (“chiều chiều”, “đêm đêm”) và thác cao nghìn thước.
Các từ láy tạo hình “khúc khuỷu” (quanh co, khó đi), “thăm thẳm” (diễn tả độ cao, độ sâu), “heo hút” (xa cách cuộc sống con người) gợi hình ảnh những con dốc quanh co, gập ghềnh. Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đi liền nhau “dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” khiến khi đọc lên ta có cảm giác trúc trắc, mệt mỏi như đang cùng hành quân với đoàn binh vậy.
Câu thơ “Heo hút cồn mây súng ngửi trời” cho thấy đỉnh núi mù sương cao vút. Núi cao tận mây, mây nổi thành cồn, mũi súng chạm trời. Mũi súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: “súng ngửi trời” giàu chất thơ, mang vẻ đẹp lãng mạn. Nó khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới.
Điệp từ “ngàn thước”, “lên” đối lập “xuống”, nhịp thơ 4/3 như tô đậm chiều cao, độ sâu và tạo một nét gãy đầy ấn tượng của núi đèo. Chiều cao và chiều sâu của dốc núi dựng đứng đã đặc tả được sự nguy hiểm đối với chiến sĩ. Dường như trong thế đứng hùng vĩ ấy, trong âm hưởng câu thơ có cả dáng mệt mỏi và nhịp thở đứt quãng nhọc nhằn của chiến sĩ Tây Tiến. Vất vả, gian lao nên không ít người đã mệt mỏi “Gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Cách nói giảm làm dịu bớt đau thương – họ hi sinh như đi vào giấc ngủ thanh thản – nhưng cũng không che giấu bớt những gian khổ, nhọc nhằn đã vắt kiệt sức của các chiến sĩ. Tuy vậy, trên đỉnh núi cao, họ vẫn giữ cho mình cái nhìn, cách nói hóm hỉnh, vui tươi của một tâm hồn trẻ trung “súng ngửi trời”.
Có cảnh đoàn quân đi trong mưa vừa hùng vĩ lại rất nên thơ: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ được dệt bởi những thanh bằng liên tiếp, gợi tả sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Cái chết đậm chất bi hùng “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Từ láy “dãi dầu” tả gian khổ, vất vả. Ba chữ “bỏ quên đời” gợi tâm thế ngang tàng, kiêu bạc, coi thường cái chết, coi thường hiểm nguy. Chết trong tư thế đẹp, ôm chắc cây súng trong tay sẵn sàng chiến đấu, không quên nhiệm vụ của người lính, chết không rời bỏ đội hình, đội ngũ.
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Hai câu thơ gợi hình ảnh núi rừng hoang sơ, huyền bí. Âm thanh dữ dội của tiếng thác buổi chiều “gầm thét” hòa điệu với tiếng gầm của cọp beo “đêm đêm” hợp thành một bản hòa tấu rùng rợn vang động núi rừng. Điệp từ: “Chiều chiều, “đêm đêm” chỉ thời gian, sự lặp lại, nhưng còn gợi hình ảnh đoàn quân Tây Tiến luôn phải đối mặt với những hiểm nguy ngày đêm rình rập, đe dọa.
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Hai câu thơ cuối gợi cảm xúc bồi hồi tha thiết. “Nhớ ôi!” từ cảm thán mang tình cảm dạt dào, đó là tiếng lòng của các chiến sĩ Tây Tiến. Câu thơ đậm tình quân dân. Hai tiếng “mùa em” là một sáng tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca, nó gợi lên vẻ đẹp xuân tình, nồng nàn hương sắc, hương xuân của những thiếu nữ Mai Châu và còn hàm chứa trong đó là bao tình thương nỗi nhớ, điệu thơ trở nên uyển chuyển, mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp.
“Nhớ mùi hương”, nhớ “cơm lên khói”, nhớ “thơm nếp xôi” là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu. Câu thơ với nhiều thanh bằng như tiếng thở phào nhẹ nhõm, thanh thản sau khi vượt qua khó khăn. Từ đỉnh núi, ánh nhìn vươn dài theo cơn mưa rừng xa tận Pha Luông, không gian thơ mộng mở ra với những mái nhà thấp thoáng gợi tình cảm gia đình ấm áp, gần gũi; tiếp thêm sức mạnh vật chất và tinh thần cho người chiến sĩ sau chặng đường dài.
Cách nói “mùa em” vừa nhẹ nhàng, tình tứ vừa mới lạ, độc đáo. Tâm hồn lãng mạn, tinh tế của người lính Tây Tiến đang hòa một nhịp với những sinh hoạt bình dị và tấm lòng của người dân vùng cao dành cho chiến sĩ. Những bữa cơm đầm ấm tình quân dân, những bát xôi nếp thơm nồng kỉ niệm khiến câu thơ cuối khổ như một tiếng lòng da diết, khắc khoải của hoài niệm.
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Từ “bừng lên” gợi cảm giác ấm áp, gợi niềm vui lan tỏa. Đêm rừng núi thành đêm hội, ngọn đuốc nứa, đuốc lau thành “đuốc hoa” gợi không khí hạnh phúc, ấm cúng. “Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng lên; cũng còn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười tưng bừng rộn rã. Không chỉ thế người lính Tây Tiến còn mê say trong tiếng nhạc, điệu khèn của vùng đất lạ. Từ “kìa em” thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của cô gái vùng cao trong trang phục “xiêm áo” lộng lẫy cùng dáng vẻ “e ấp” rất thiếu nữ. Những thiếu nữ Mường, Thái, Lào xinh đẹp, duyên dáng “e ấp”, xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ, cùng với tiếng khèn “man điệu” đã “xây hồn thơ” trong lòng các chàng lính trẻ. Cũng có thể hiểu người lính đang đóng giả con gái trong những trang phục dân tộc rất độc đáo, tạo tiếng cười vui cho đêm văn nghệ. Câu thơ cuối tả độ phiêu du của âm nhạc, cái phiêu du của hồn người đang thăng hoa cùng văn hoá Tây Bắc – “nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
“Chiều sương ấy” là một buổi chiều đặc biệt, đầy kỉ niệm đáng nhớ. Từ “ấy” gợi thời gian hoài niệm, gợi màu sắc bảng lảng, sương khói, gợi nỗi buồn man mác, bâng khuâng. Lau lách vốn vô tri, không có hồn nhưng dường như nó đã nhuốm màu tâm trạng nên nó mang linh hồn người: “hồn lau nẻo bến bờ”.
Giữa không gian ấy, con người xuất hiện khoẻ khoắn, kiên cường. “Độc mộc” là một loại thuyền được làm từ thân gỗ lớn, dài. “Dáng người trên độc mộc” phải chăng là dáng người mềm mại của cô gái Thái, Mèo trên chiếc thuyền độc mộc đang đua chiến sĩ vượt sông hay dáng người kiêu hãnh, hiên ngang của người lính đang chèo thuyền tiến lên phía trước. Hình ảnh ấy càng làm cho bức tranh thêm phần thơ mộng.
Dòng sông Mã với Tây Bắc ẩn chứa biết bao dữ dội nay lại hiện lên “dòng nước lũ”: “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Câu thơ ngắt nhịp 4/3 tạo thành hai hai vế tiểu đối: “dòng nước lũ” tương phản với “hoa đong đưa”. Từ láy “đong đưa” gợi ấn tượng sâu sắc. “Đong đưa” chứ không phải là “đung đưa”, “đong đưa” vừa tả được chuyển động của hoa, vừa gợi được nét quyến rũ của hoa rừng Tây Bắc, vừa gợi cánh hoa rừng Tây Bắc cũng như quyến luyến con người. Điệp từ: “Có nhớ”, “có thấy” luyến láy, khắc hoạ thêm nỗi nhớ bồi hồi, lưu luyến.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Quang Dũng dùng bút pháp hiện thực để tô đậm cái phi thường của người lính. Đầu tiên có thể thấy cái bi thương: Ngoại hình người lính ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc “không mọc tóc”, da dẻ xanh như màu lá “quân xanh màu lá”. Đoàn quân trông thật kì dị. Đó là hậu quả của những ngày hành quân vất vả vì đói và khát, dấu ấn của những trận sốt rét ác tính làm tóc rụng không mọc lại được, da dẻ héo úa như tàu lá.
Bên cạnh cái bi ta còn thấy cái hào hùng: thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa ngoại hình ốm yếu và tâm hồn đã làm nên cái chất mạnh mẽ trong tư thế của người lính: “Đoàn binh không mọc tóc”, câu thơ tả cái ngang tàng của người lính, lại như có nét đùa vui: không cần tóc mọc . Lại có thêm “quân xanh màu lá”, tương phản với “dữ oai hùm”. Cả ba nét vẽ đều sắc, góc cạnh. Hình ảnh những “vệ túm”, “vệ trọc” một thời gian khổ được nói đến một cách hồn nhiên.
Quân phục xanh màu lá, nước da xanh và đầu không mọc tóc vì sốt rét rừng, thế mà quắc thước hiên ngang, xung trận đánh giáp lá cà “ dữ oai hùm” làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía. Cách dùng từ Hán Việt “đoàn binh” đã gợi lên được sự mạnh mẽ lạ thường của sự hùng dũng, trong đó có dáng dấp của “Quân đi điệp điệp trùng trùng” trong thơ Tố Hữu, của “tam quân tì hổ khí thôn ngưu” (sức mạnh ba quân nuốt trôi trâu) trong thơ Phạm Ngũ Lão. Ba từ “dữ oai hùm”, gợi dáng vẻ oai phong lẫm liệt, người lính Tây Tiến mạnh mẽ làm chủ tình hình, làm chủ núi rừng, chế ngự mọi khắc nghiệt xung quanh, đạp bằng mọi gian khổ. “Mắt trừng” dữ tợn, căm thù, mạnh mẽ, nung nấu ý chí diệt thù.
Bên cạnh chất bi hùng, đoạn thơ còn để lại dấu ấn của chất lãng mạn của chàng trai Hà Nội mang tâm hồn hào hoa: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng, cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa. Giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn, trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội: đó có thể là phố cũ, trường xưa, những con đường mùa thu thơm lừng hoa sữa… hay chính xác hơn là nhớ về một “dáng kiều thơm”, bóng dáng của những người con gái Hà thành yêu kiều, diễm lệ.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Câu “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” toàn từ Hán Việt gợi không khí cổ kính. Miêu tả về cái chết, không né tránh hiện thực. Những nấm mồ hoang lạnh vô danh mọc lên dọc đường quân hành nhưng không làm chùn bước chân Tây Tiến. Khi miêu tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy.
Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Vì thế cho nên câu thơ tiếp theo dữ dội như một lời thề sông núi: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
Phép tương phản: chiến trường – đời xanh. “Chiến trường” là đạn bom, chết chóc, hi sinh, gian khổ. “Đời xanh” là ẩn dụ chỉ vẻ đẹp tuổi trẻ, tuổi hoa niên. Bốn từ “chẳng tiếc đời xanh ” vang lên khảng khái, vừa gợi vẻ bất cần đồng thời mang vẻ đẹp thời đại “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”, cống hiến trọn đời vì độc lập tự do của đất nước của dân tộc. Bởi vì hơn ai hết người lính hiểu rằng: Không gì quan trọng bằng Tổ quốc, hai tiếng giản dị mà thiêng liêng đến vô cùng:
“Ôi tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi Tổ Quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông”
Chói ngời hơn nữa ở bức tượng đài người lính bộ đội Cụ Hồ là thái độ hi sinh. Quang Dũng viết về cái chết thật nhẹ nhàng như một khúc tráng ca:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Quang Dũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh áo bào và sự hy sinh của người lính đã được coi là sự trở về với đất nước, với núi sông.
Cụm từ “anh về đất” nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Chết là sự trở về với đất mẹ, đất mẹ giang rộng vòng tay đón lấy các anh để từ đó:
“Người hi sinh đất hồi sinh
Máu người hóa ngọc lung linh giữa đời”.
Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Cái chết không chỉ làm xúc động lòng người mà còn làm cảm động đến cả thiên nhiên Tây Bắc. Vì thế khúc độc hành của dòng Sông Mã như lời tiễn đưa các anh bằng bản nhạc của núi rừng đượm chất bi tráng như loạt đại bác đưa tiễn những anh hùng về với non sông tổ quốc.
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Chàng trai Tây tiến, khi ra đi đều không ước hẹn ngày về, đều sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn. Vì vậy, cái chết với họ nào có là gì khi hồn của họ đã hòa vào hồn thiêng sông núi, bay lên, bay lên mãi, “hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”. Dù chết, linh hồn họ vẫn theo đồng đội hành quân, chiến đấu. Quang Dũng khẳng định cái ý niệm “nhất khứ bất phục hoàn” trong hình ảnh anh bộ đội Tây Tiến, cũng là cái ý niệm chung cả một thời kỳ, một thế hệ con người. Giọng thơ trầm, chậm, hơi buồn nhưng ý thơ vẫn hào hùng.
Với cảm hứng và bút pháp lãng mạn, cách sử dụng từ ngữ đặc sắc, kết hợp chất nhạc và chất họa, bài thơ “Tây Tiến của Quang Dũng khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên nền cảnh núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội. Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng sẽ luôn đồng hành trong trái tim và trí óc của mỗi chúng ta.
-
“Tây Tiến” là một đơn vị quân đội được thành lập vào năm 1947 với nhiệm vụ chính là phối hợp với bộ đội Lào chống lại thực dân Pháp. Đa phần những người lính trong binh đoàn Tây Tiến đều là học sinh sinh viên, trong đó có nhà thơ Quang Dũng. Năm 1948, sau khi chuyển sang đơn vị khác, nhà thơ đã nhớ về binh đoàn cũ và sáng tác ra bài thơ “Tây Tiến”. Tác phẩm đã khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào hùng nhưng cũng đầy lãng mạn, hào hoa, cùng với đó là hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ dữ dội và thơ mộng.
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Mở đầu bài thơ, Quang Dũng nhắc đến “sông Mã” và đoàn quân “Tây Tiến” với một tiếng gọi thật tha thiết, trìu mến. Tiếp đến, điệp từ “nhớ” đã cho thấy cảm xúc chủ đạo của bài thơ - nỗi nhớ đến trống vắng, hụt hẫng. Các địa danh “Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông” gợi về những cuộc hành quân, để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi và heo hút. Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên thật hùng vĩ. Từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” nhằm khắc họa hình ảnh con dốc hiểm trở. Nhưng trong hoàn cảnh đó, người lính vẫn hiên ngang - mũi súng trên vai được nhân hóa tạo thành hình ảnh “súng ngửi trời”. Họ hành quân trong đêm mưa không biết mệt mỏi, trong tiếng thác nước dữ dội hòa với tiếng hú man dại, ghê gớm của thú rừng mang âm hưởng của đại ngàn. Sau những đêm hành quân gian khổ, họ dừng chân bên xóm làng, mùi thơm hương nếp mới và ấm tình quân dân đã xua tan bao nhọc nhằn gian khổ.
Đến khổ thơ thứ hai, Quang Dũng đã khắc họa đêm vui liên hoan văn nghệ và bức tranh sông nước miền Tây Bắc hư ảo:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Ngọn đuốc rừng thắp sáng đêm liên hoan văn nghệ truyền thống đã thành “hội đuốc hoa” khiến khung cảnh tuy thiếu thốn mà rực rỡ lung linh bao ước mơ, hạnh phúc. Hai chữ “kìa em” thể hiện sự ngạc nhiên đến ngỡ ngàng của người lính. Những cô gái Tây Bắc trong bộ xiêm áo đang múa điệu múa truyền thống trong. Tiếng khèn mang linh hồn của núi rừng càng trở nên lôi cuốn. Tâm hồn các chiến sĩ mộng mơ, lãng mạn. Khung cảnh Châu Mộc trong một buổi chiều sương phủ trên dòng nước mênh mông, đầy hoang dại, huyền ảo. Hình ảnh “hoa đong đưa” vừa là tả thực những bông hoa khẽ lay động đong đưa làng duyên trên dòng nước lũ; vừa là hình ảnh ẩn dụ, gợi tả vẻ đẹp của các cô gái Tây Bắc.
Khổ thơ thứ ba là bức chân dung người lính Tây Tiến hào hùng mà vẫn lãng mạn hào hoa, sự hy sinh mất mát:
“Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
Ở nơi chiến trường gian khổ, mọi công việc sinh hoạt đều diễn ra một cách đơn giản nhất. Chính vì vậy, họ đã chủ động chọn cách cắt đi mái tóc của mình để thuận tiện cho cuộc sống. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc” còn nói về một thực tế khốc liệt nơi chiến trường. Những cơn sốt rét rừng khiến cho người lính bị rụng hết tóc. Tiếp đến là hình ảnh ảnh “quân xanh màu lá dữ oai hùm” gợi ra hai cách hiểu cho người đọc. Cách thứ nhất đó là màu xanh của lớp lá ngụy trang. Trên đường hành quân nơi chiến trường, người lính phải ngụy trang để tránh khỏi tai mắt của kẻ thù. Ở đây, màu xanh của lớp áo ngụy trang lẫn với màu xanh của cây rừng. Cách hiểu thứ hai đó chính là khuôn mặt xanh xao của những người lính bởi những cơn sốt rét rừng. Cả hai cách hiểu đều cho thấy sự khó khăn mà người lính đã phải trải qua trong chiến đấu.
Họ không chỉ dũng cảm, mà còn rất thơ mộng. Những người lính Tây Tiến đều xuất thân từ tầng lớp trí thức tiểu tư sản. Họ xung phong vào nơi chiến trường trận mạc trở thành những người lính nhưng vẫn mang giữ tâm hồn của những chàng sinh viên. Hình ảnh “mắt trừng” gợi đến một đôi mắt đang theo dõi kẻ thù với sự căm giận và quyết tâm. Đôi mắt ấy “gửi mộng qua biên giới” với khát vọng về một hòa bình cho tổ quốc, cho nhân dân. Để rồi khi đêm đến họ mơ về “Hà Nội dáng kiều thơm” - đó là những cô gái Hà Nội với vẻ đẹp thướt tha thanh lịch. Nhiều nhà nghiên cứu khi đọc câu thơ này của Quang Dũng đã cho rằng nó mang cái “buồn rớt, mộng rớt” của giai cấp tiểu tư sản. Nhưng ở đây không phải vậy, qua hình ảnh trên, nhà thơ muốn khắc họa nỗi nhớ gia đình, nhớ quê hương của người lính Tây Tiến.
Bốn câu thơ sau khắc họa sự hy sinh anh dũng của người lính Tây Tiến. Nghệ thuật đảo ngữ: “Rải rác” – “biên cương mồ viễn xứ” kết hợp với từ láy “rải rác” và từ Hán Việt “biên cương”, “viễn xứ” khiến cho giọng thơ bỗng nhiên trở nên trang trọng hơn. Hình ảnh này gợi ra đây không chỉ là một cái chết mà là nhiều cái chết. Khắp nơi trên mảnh đất này đều có mộ của những chiến sĩ đã hy sinh. Nhưng dù đồng đội của các anh đã ra đi, nhưng các anh vẫn nguyện đem thân mình dâng hiến cho tổ quốc. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” như một lời khẳng định. Những người lính nguyện đem thân mình cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Các anh chẳng tiếc nuối những năm tháng tuổi trẻ. Nhưng làm sao mà không tiếc nuối cho được? Họ mới chỉ là những chàng trai tuổi mười tám đôi mươi còn nhiều thơ mộng. Nhưng vì lý tưởng cách mạng người lính vẫn nguyện hy sinh tất cả. Hình ảnh “áo bào” gợi ra hai cách hiểu sâu sắc. Những người lính khi ra đi, đồng đội của các anh không có gì để chôn cất nên các anh phải dùng những chiếc áo còn nguyên vẹn thay thế. Nhưng “áo bào” con mang ý nghĩa thiêng liêng - đó là tấm chiến báo khoác lên mình những chiến tướng. Người lính ra đi nhưng họ đã để lại những chiến công vang dội giống như những vị tướng thời xưa. Với hình ảnh này, người lính đã được bất tử hóa. Các anh không chết đâu, các anh vẫn mãi sống trong lòng của người dân Việt Nam. Cuối cùng là hình ảnh con sông Mã: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Trước sự hy sinh ấy, con sông Mã - con sống gắn bó với cuộc sống người lính Tây Tiến tại núi rừng Tây Bắc dường như cũng không thể im lặng: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Sông Mã vốn là vật vô tri vô giác lại được nhân hóa qua động từ “gầm”. Cái chết của các anh khiến cho thiên nhiên cũng phải thương xót mà vang lên khúc tráng ca tiễn biệt.
Khổ thơ cuối cùng là lời Khái quát những ngày Tây Tiến và những kỷ niệm không thể nào phai. Tây Tiến người đi không hẹn trước/Đường lên thăm thẳm một chia phôi” như một lời báo hiệu về sự ra đi mà không có lời hẹn trước, tinh thần sẵn sàng chiến đấu cho tổ quốc. Hai câu thơ cuối: “Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy/Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” gợi nhắc về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến không thể nào phai mờ.
Như vậy, bài thơ Tây Tiến đã khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào hùng nhưng cũng đầy lãng mạn, hào hoa, cùng với đó là hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ dữ dội và thơ mộng.
-
Quang Dũng – một nhà thơ đa tài trong nhiều lĩnh vực như sáng tác thơ, viết văn, vẽ tranh. Những tác phẩm của ông luôn để lại cho người đọc – người xem một cảm xúc khó tả, thể hiện tâm hồn của một người lãng mạn, hào hoa và đầy trữ tình. Trong số những tác phẩm đó, chúng ta không thể không nhắc tới Tây Tiến. Bài Thơ được Quang Dũng viết bằng dòng hồi ức về nỗi nhớ đồng đội, gợi lại những hình ảnh, kỷ niệm thân thương đầy tha thiết và sâu lắng.
Bài thơ Tây Tiến được sáng tác vào đầu thời kỳ chiến tranh ác liệt của quân và dân ta năm 1948. Bài thơ được in trong tập Hoa Dọc Chiến Hào, miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên của rừng núi Tây Bắc và ngợi ca những người chiến sĩ với tinh thần anh dũng, bi tráng.
Mở đầu bài thơ, tác giả cho chúng ta thấy được vẻ đẹp thiên nhiên của Tây Tiến với một tiếng gọi rất thân thương từ hiện tại đến quá khứ:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
..........
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”
Thán từ “ơi” được Quang Dũng khéo léo đặt với thanh bằng gợi sự dịu êm. “Nhớ chơi vơi” chính là nỗi nhớ chẳng thể nào định hình mà lại luôn bâng khuâng bao trùm lên cả không gian và thời gian. Hai câu thơ đầu tác giả gợi nhớ lại những hình ảnh thân thuộc trong trí nhớ về một Tây Tiến. Một hành trình đầy khó khăn, gian khó hiện ra khi đoàn quân đi vào miền rừng núi hoang sơ, hùng vĩ. Các địa danh nổi tiếng: Sông Mã, Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch, Pha Luông, Mai Châu càng thể hiện sự rộng lớn của Tây Bắc. Nhà thơ Quang Dũng sử dụng ngắt nhịp ¾ tạo nên sự phân định rạch ròi giữa 2 hướng lên và xuống trên con đường hành quân tại Tây Tiến.
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Thiên nhiên Tây Bắc luôn thật dữ dội và khắc nghiệt đối với mỗi bước chân hành quân qua đây. Nhà thơ Quang Dũng còn rất tinh tế khi sử dụng từ ghép, từ láy tượng hình giàu sắc thái biểu đạt, gợi cái sự trắc trở khi phải vượt qua những con dốc cao, núi thẳng, đèo sâu như thách thức, đe dọa tính mạng con người của núi rừng Tây Bắc. Chỉ một chút lơ là cũng khiến con người phải trả giá bằng chính mạng sống. Đó chính là hiện thực của kháng chiến và chiến tranh phi nghĩa đem lại.
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Trên chặng đường hành quân ấy, đã có những lúc mệt mỏi, bước chân bị chùn lại, giây phút hiếm hoi để các chiến sĩ được nghỉ ngơi sau bao gian nan, vất vả, nhưng đó cũng có thể là lúc tạm biệt đồng chí đồng đội để trở về với cát bụi. Tác giả không dùng từ bỏ mạng mà là “bỏ quên đời” – gợi nên khí phách hiên ngang, oai dũng của một người chiến sĩ. Nhà thơ đã sử dụng lối nói giảm nói tránh để trong sự mất mát đó không thấy được nỗi đau thương, bi lụy. Thay vào đó là ánh hào quang của một tâm hồn lạc quan, yêu đời, một tinh thần kiên cường chiến đấu vì quê hương đất nước. Xung quanh luôn có những hiểm nguy rình rập, đó là tiếng gầm thét của thác nước, bước chân của cọp giữ.
Sau những dữ dội của thiên nhiên đại ngàn, hồn thơ Quang Dũng lại tìm về với những với những dịu dàng, nhớ thương và ấm nồng trong đời sống con người.
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Hình ảnh cuộc sống con người bình dị hiện về đầy thân thương với bếp cơm giản dị, hương khói thơm nồng gợi về một cuộc sống rất đỗi bình yên và hạnh phúc trong tâm hồn những người lính.
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Ánh sáng đuốc hoa thắp sáng của một doanh trại, kéo gần hơn sợi dây gắn kết giữa những người lính và nhân dân. Giữ không khí căng thẳng của cuộc kháng chiến, hình ảnh những người lính vẫn yêu đời, lạc quan, vẫn hết mình cùng người dân Tây Bắc trong ngày lễ hội.
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Bức tranh thiên nhiên của Tây Bắc hiện lên với ánh chiều tà, cây lau lơ phơ trước gió và bóng hình con người cũng trở nên nhỏ bé khi đứng giữa đại ngàn, gợi nên một chút buồn thương, đơn độc và phảng phất chút đìu hiu.
Sau những ca từ lãng mạn là những âm điệu bi thương, tàn khốc của cuộc chiến tranh đầy phi lý
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
......
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Đoàn quân Tây Tiến là những chàng trai trẻ Hà Thành, họ phải đối mặt với muôn vàn khó khăn thử thách. Đó là thiên nhiên đầy nguy hiểm, bệnh tật hoành hành khiến họ gầy rộc, xanh xao, tóc không thể mọc. Và khi phải chứng kiến cảnh đồng đội hy sinh, thi sĩ khắc họa hình ảnh “ áo bào thay chiếu anh về đất”. Không phải mất mát, không phải gục ngã, người lính ấy trở về với đất mẹ sau bao ngày tháng chiến đấu oai hùng. Trong câu thơ vẫn ánh lên niềm tin tưởng vào Đảng vào Cách mạng. Hình ảnh sông Mã gầm thét giống như đang tấu nên khúc trường ngợi ca và chia tay những người lính. Đó là một tinh thần chiến đấu anh dũng và cao cả của anh bộ đội cụ Hồ.
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Khép lại bài thơ, Quang Dũng dành những vần thơ chậm rãi, vô cùng ngọt ngào cho đoàn quân Tây Tiến cùng đồng bào nơi Tây Bắc. Đã bước chân vào chiến trường chẳng ai hứa hẹn được điều gì, cũng không thể biết trước được tương lai, chỉ để lại đó nỗi nhớ thương sâu nặng dành cho người ở lại. Tây Tiến là thanh xuân, là đồng đội và là cả lý tưởng của một thời thanh niên noi theo ánh sáng của Đảng.
Bài thơ sử dụng bút pháp lãng mạn để miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên và hiện thực khốc liệt nơi chiến trường qua đó cho thấy vẻ đẹp tâm hồn, ý chí cao cả của người lính Tây Tiến. Bài thơ góp phần đưa Quang Dũng trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu của nghệ thuật Việt Nam 1945-1975.
-
Thảo nguyên Châu Mộc nhớ không?
Một thời lính trẻ tang bồng chưa xa.
Mỏ Mù, Tây Bắc, lau già…
Kỷ niệm xưa bỗng trắng nhòa sắc ban.
(Nhớ Tây Bắc – Phạm Ngọc San)
Chẳng biết tự bao giờ, Tây Bắc trở thành miền thương nhớ trong trái tim biết bao người, đặc biệt là với những người lính đã từng vào sinh ra tử cùng xứ hoa ban. Tây Bắc đã trở thành “nàng thơ” của biết bao thi sĩ, và tất yếu, không thể không nhắc đến thi phẩm “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng. Giữa cái bộn bề của thị trường thơ hôm nay, lật trang sách cũ, gặp Tây Tiến của Quang Dũng, chợt xôn xao cõi lòng theo những vần thơ đượm màu kiêu bạc hào hoa: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi…
Bên cạnh những bài thơ nổi tiếng một thời như Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên…, Tây Tiến của Quang Dũng là một thi phẩm đặc sắc. Đoàn quân Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào chống quân đội của thực dân Pháp. Địa bàn hoạt động của lính Tây Tiến rất rộng, từ tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa, Sầm Nứa (Lào), trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội, nhưng họ sống rất lạc quan và chiến đấu dũng cảm. Chiến đấu được một thời gian thì đoàn binh Tây Tiến trở về Hòa Bình tại trung đoàn 52, khi ấy Quang Dũng là đại đội trưởng sau đó ông chuyển sang đơn vị khác. Trong nỗi nhớ đồng chí đồng đội đến cồn cào và da diết, tại làng Phù Lưu Chanh ông đã viết bài thơ Tây Tiến (1948).
Toàn bài thơ là một nỗi nhớ. Tác giả nhớ về cuộc sống gian khổ, nhớ về kỷ niệm những đêm liên hoan, về cái âm u, hoang dã của rừng núi và in đậm nhất là nỗi nhớ của người lính Tây Tiến. Nổi bật trong tác phẩm là cảm hứng lãng mạn và bi tráng của từng câu thơ. Mở đầu tác phẩm là nỗi nhớ miên man trải dài.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi làm nao lòng người. Nỗi nhớ thương, nỗi nhớ như nén chặt, bỗng trào dâng. Sông Mã không chỉ là một địa danh mà nó còn là một “chứng nhân lịch sử” trong suốt chặng đường hành quân. Tây Tiến cũng không chỉ là tên một đoàn quân mà nó đã trở thành một người bạn, một người tri kỉ bấy lâu. “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi” như chứa đựng cả một bầu trời thương nhớ với bao bâng khuâng hụt hẫng và nuối tiếc. Âm “ơi” như ngân vang ra từ vách đá của núi rừng Tây Bắc, ngân vang trải dài đến đâu mang theo tâm tư tình cảm của Quang Dũng lan ngấm thấm tràn đến đó. Từ “ơi” bắt vần với từ láy “chơi vơi” làm cho âm điệu câu thơ trở nên mênh mang, chơi vơi. Có lẽ Quang Dũng đã học tập cách diễn đạt nỗi nhớ trong ca dao:
“Ra về nhớ bạn chơi vơi
Nhớ chiếu bạn trải nhớ chăn bạn nằm”
Có lẽ nếu diễn tả “nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ như những đợt sóng cồn cào, có vẻ không đúng. Hai chữ “chơi vơi” không để diễn tả sự dồn dập, thắm thiết, diết da. Vốn dĩ nó diễn tả những thứ như không có điểm tựa, chênh vênh, mênh mang. Và có lẽ nỗi nhớ ở đây cũng vậy, ấy là thứ cảm xúc như lan tràn, mênh mang, không điểm tựa. Nó như sự hẫng hụt, lại mang đến sự bồn chồn, xôn xao trong tâm hồn. Nhớ như vậy, có lẽ mới quay quắt, mới khiến người ta nhói lòng.
Từ Phù Lưu Chanh ông nhớ dòng sông Mã, nhớ núi rừng miền Tây, nhớ đoàn binh Tây Tiến – một đơn vị bộ đội đã hoạt động tại vùng rừng núi miền Tây Thanh Hóa, Hòa Bình, Sơn La – biên giới Việt Lào trong những năm đầu kháng chiến. Bao kỉ niệm đẹp một thời chinh chiến bỗng sống dậy. Những tên bản, tên mường của rừng xưa núi cũ yêu thương hiện về, bỗng trở nên gần gũi thân thiết, làm xao xuyến hồn người chiến sĩ:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Sài Khao, Mường Lát là những địa danh, bản làng xa xôi hẻo lánh mà lính Tây Tiến đã hành quân qua hoặc đã có những phút giây ngơi nghỉ. Sài Khao là mảnh đất lắm sương nhiều khói, sương che lấp đường đi, sương phủ kín bóng người, sương như tấm áo choàng bảng lảng trùm lên con sông, ngọn suối, sườn đèo. Ta nghe đâu đây giữa núi rừng hiểm trở cheo leo có những hơi thở mệt mỏi của những chàng trai đất Hà thành nhọc nhằn trên từng chặng đường hành quân. Thế mà với trái tim nhạy cảm, tình yêu tha thiết với mảnh đất và con người Tây Bắc, họ như nghe từng hơi thở nhịp đập thậm chí là cái khe khẽ trở mình của cỏ cây hoa lá trên đất Mường Lát khi màn đêm buông xuống.
Ngày nối ngày, đêm nối đêm, trải qua bao dãi dầu, “đoàn quân mỏi” giữa cái biển sương mù của núi rừng miền Tây; “đoàn quân mỏi” tưởng như bị “lấp” đi, bị trĩu xuống trong mệt mỏi, gian truân, nhưng thật bất ngờ, bỗng xuất hiện “hoa về trong đêm hơi”. Cái mỏi mệt, cái gian khổ như đã tiêu tan. Sáu thanh bằng liên tiếp diễn tả cái nhẹ nhàng, cái lâng lâng trong tâm hồn người lính trẻ đi tới đích sau những chặng đường dài hành quân đầy thử thách: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Có thể nói Quang Dũng như một phóng viên lia ống kính để mở ra trước mắt người đọc một thước phim về núi rừng hiểm trở mà cheo leo:
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Các từ láy: “thăm thẳm”, “khúc khuỷu”, “heo hút” được lựa chọn và sử dụng như những nét khắc, nét vẽ có giá trị tạo hình đặc sắc, làm hiện lên những dốc, những cồn mây mà nhà thơ và đồng đội phải vượt qua trong những tháng ngày: “áo vải chân không đi lùng giặc đánh” (Hồng Nguyên). Cả câu thì có 5 chữ mang thanh trắc “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” nhằm nhấn mạnh cuộc hành quân của đoàn quân Tây Tiến đi qua địa bàn đèo dốc quanh co, lên cao mãi, vô vùng khó khăn, khốc liệt.
Có câu thơ gồm 2 vế tiểu đối, bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ Tây Tiến được đo bằng: “Ngàn thước lên cao // Ngàn thước xuống”. Núi tiếp núi, đèo nối đèo, hết lên cao, lại xuống thấp, đoàn quân đi trong mù sương, trong màn mưa rừng. Dường như câu thơ có sự chuyển động, càng đẩy ra hai phía là núi cao chất ngất lưng trời, vực sâu thăm thẳm khôn cùng để lại khoảng trống về một Tây Bắc dữ dội, huyền bí như một ẩn số đối với con người.
Từ những đỉnh cao “ngàn thước”, các chiến binh dõi tầm mắt nhìn xa. Những bản mường, những nhà sàn thấp thoáng ẩn hiện. Câu thơ thất ngôn, toàn thanh bằng gợi tả cảm xúc tươi vui, lâng lâng thanh thản dâng lên trong tâm hồn người lính trẻ rất lạc quan yêu đời khi dõi nhìn về xa qua màn mưa rừng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Cảnh vật bỗng trở nên nửa thực nửa ảo chập chờn như trong cõi mây, chất lãng mạn như phủ kín cảnh vật, đó là sản phẩm của một họa sĩ ẩn trong tâm hồn một thi sĩ.
“Súng ngửi trời” là một cách cảm nhận rất ngộ nghĩnh mang đậm chất lính. Một chút tếu táo của người lính giữa chốn đèo cao càng làm cho họ trở nên đẹp đẽ hơn, như minh chứng cho ý chí, sức mạnh phi thường và khát khao chinh phục. Thật đúng là:
“Đèo cao thì mặc đèo cao
Trèo lên tới đỉnh ta cao hơn đèo”
Tây Bắc được nhà thơ quan sát ở nhiều góc độ: ngước mắt nhìn lên là núi cao lưng trời, đưa mắt nhìn xuống là vực sâu hun hút, phóng xa tầm mắt trong làn sương ta có cảm giác những ngôi nhà trên đất Pha Luông đang bồng bềnh trôi giữa chốn xa khơi. Cảnh vật bỗng trở nên nửa thực nửa ảo chập chờn như trong cõi mây, chất lãng mạn như phủ kín cảnh vật, đó là sản phẩm của một họa sĩ ẩn trong tâm hồn một thi sĩ.
Sự trắc trở, hiểm nguy của thiên nhiên còn được diễn tả một cách gân guốc:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Cảnh hiểm trở cheo leo nhưng đâu có tĩnh lặng thanh bình… Với những từ “oai linh”, “gầm thét” thác nước như một sức mạnh thiêng liêng, đầy quyền uy, đầy đe dọa, và những con hổ đi lang thang hoành hành ngang dọc coi mình là chúa tể của núi rừng làm cho cảnh rừng núi thêm rùng rợn ghê sợ. “Chiều chiều” rồi “đêm đêm” thiên nhiên dữ dội “gầm thét” và những hiểm nguy luôn rình rập như thể “trêu người”. Thiên nhiên hùng vĩ mà kì tráng, qua nét bút của Quang Dũng đã trở nên khắc nghiệt, khó khăn và đầy những những hiểm ngụy. Và vì chiến tranh, vì rừng thiêng nước độc cho nên rất nhiều chiến sĩ, rất nhiều đồng đội đã phải bỏ mình nơi đó, bỏ lại tuổi trẻ và những ước mơ dở dang:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục bên súng mũ bỏ quên đời
“Bỏ quên đời” chỉ là cách nói nhằm giảm nhẹ sự mất mát, tang thương khi người lính lìa trần. Nhưng hình ảnh sử dụng rất đắt là hình ảnh “gục lên súng mũ”. Ta chợt nhớ đến dáng đứng của anh giải phóng quân về sau trong thơ Lê Anh Xuân:
Anh ngã xuống trong khi đang đứng bắn
Máu anh tuôn theo lửa đạn cầu vồng.
Dáng đứng của anh giải phóng quân mãi mãi đi vào lòng người dân trong kháng chiến chống Mĩ thì dáng ngã xuống gục xuống của anh lính cụ Hồ hẳn sẽ không phai mờ trong tâm hồn của Quang Dũng, của đoàn quân Tây Tiến và của những người tham gia kháng chiến. “Gục lên súng mũ” cũng là cách nói nhẹ và cũng là cách nói của những người thanh niên trí thức lúc bấy giờ. Người lính ra đi nhưng đồng đội anh lại tiếp bước.
Sự trầm lắng của câu thơ như một nốt trầm lặng thành kính, thiêng liêng trong một bản nhạc hào hùng vừa qua. Ở đó, những người lính thật đáng quý biết bao. Họ đã hi sinh cả tuổi trẻ – điều tốt đẹp nhất của cuộc đời – để gìn giữ cho hòa bình hôm nay. Nói về cái chết mà lời thơ không bi lụy. Đó cũng là một nét trong phong cách biểu hiện của nhà thơ Quang Dũng. Những ngày chiến đấu bảo vệ biên giới, để giúp bạn giữa núi rừng Tây Bắc thật lắm gian nan khó nhọc. Những gian nan khó nhọc còn hằn sâu trong trí nhớ. Quang Dũng không khoa trương tính cách anh hùng dũng cảm, cũng không nói đến cảnh bách chiến bách thắng. Nhưng sống và chiến đấu trong một địa bàn hiểm trở dữ dội, hoang dã đã là anh hùng rồi.
Đang nói đến cái rùng rợn bí hiểm của rừng già, nhà thơ bỗng nhớ lại một kỉ niệm ấm áp tình quân dân:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Trong gian khổ thiếu thốn người ta càng nâng niu, càng quý trọng nghĩa tình. Hình ảnh những nồi cơm lên khói, những mùa màng thơm nếp xôi và đặc biệt là “em” biểu tượng cho người dân Tây Bắc hiện về trong cảm xúc nhà thơ vừa tự nhiên vừa tinh tế. Sự xuất hiện của những hình ảnh này khiến cho đoạn kết của khổ thơ có sức bay bổng. Đoạn thơ ấm lại trong tình quân dân mặn nồng. Hai câu cuối gieo vào tâm hồn độc giả một cảm xúc ấm nóng. Cái ấm nóng của tình người. Đây chính là chất lãng mạn bay bổng của đoạn thơ và nó như một nét vẽ tươi sáng của bức tranh.
Đoạn thơ là sự phối kết hợp hài hòa giữa hai bút pháp hiện thực và lãng mạn. Cả đoạn thơ như một bức tranh thủy mặc cổ điển được phác thảo theo lối tạo hình phương đông. Quang Dũng là một hoạ sĩ. Ông có tài chấm phá trong việc phác thảo cảnh vật. Quang Dũng đã xây một đài kỉ niệm trong thơ cho thiên nhiên Tây Bắc và người lính Tây Tiến.
Ở đoạn hai, thiên nhiên và con người Tây Bắc lại được mở ra với một vẻ đẹp mới, khác với đoạn đầu. Anh hùng trong chiến đấu nhưng người lính Tây Tiến cũng say mê, lãng mạn trong đêm hội:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Đây là kỉ niệm đẹp về tình dân quân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng. Chữ “bừng” là một nét vẽ có thần. “Bừng” là sáng bừng lên, cháy rực lên từ những ngọn đuốc trong đêm “hội đuốc hoa”. “Hội đuốc hoa” là cảnh thực. Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra dưới những cánh rừng, người đến dự đều cầm trên tay ngọn đuốc, gió thổi làm những ngọn đuốc lung linh phát ra những tia lửa. Cảnh tượng này trong đêm quả thật nhìn như hoa đuốc. Cảm nhận của Quang Dũng vừa tinh tế vừa lãng mạn, câu thơ gợi sức liên tưởng, tưởng tượng cho người đọc. Trên cái nền không gian ấy “em” xuất hiện.
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
“Kìa em” là lời chào đón đầy ngạc nhiên, sung sướng đến ngỡ ngàng. Lời chào đón mang tính phát hiện. Em lạ mà quen, quen mà lạ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa. Câu thơ thứ ba xuất hiện, lập tức khổ thơ như tràn đầy âm nhạc.
Khèn lên man điệu nàng e ấp.
Từ “man điệu” mà Quang Dũng sử dụng ở đây cũng rất tài hoa. Người đọc như được chứng kiến những vũ khúc hoang sơ của văn hóa Âu Lạc. Vũ khúc ấy hòa với vũ điệu của Em duyên dáng, e ấp, tình tứ. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thực sự ngất ngây trước người và cảnh.
Tây Bắc mênh mang, huyền ảo hiện lên trong bốn câu thơ tiếp:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sương khói hiện lên như một miền cổ tích. Ta nhớ rằng Quang Dũng là một họa sĩ bởi vậy đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật là tài hoa. Chỉ một vài nét chấm phá vậy mà cái hồn của cảnh vật và con người hiện lên thật sinh động đầy sức cuốn hút.
Cách sử dụng từ ngữ “ hồn lao, dáng người, hoa đong đưa” có sự cộng hưởng hô ứng với nhau, sao lại là “ hồn lao” mà không phải là bờ lao. Bởi bờ lao thì sẽ rất cụ thể mà ở đây là cảm nhận. Cách đặt câu hỏi thật đặc sắc “ Có thấy hồn lau nẻo bến bờ, Có nhớ dáng người trên độc mộc”. Hình ảnh khỏe khoắn trẻ trung và đầy sức sống, “ hoa đong đưa” gợi lên sự đa tình như để làm nũng như là đang hấp dẫn những người trên đồi độc mộc, vẻ đẹp tinh tế tài hoa trong cách diễn đạt của tác giả. Cảnh vật như thiêng liêng, tưởng như đang lạc vào thế giới cõi mây. Ai nói rằng Tây Bắc là xứ rừng thiêng nước độc, xin hãy một lần để cho tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn.
Đoạn thơ bộc lộ chất tài hoa, chất lãng mạn của Quang Dũng đến tuyệt vời. Cảm ơn nhà thơ đã cho ta một chuyến hành trình về với Tây Bắc thơ mộng để khám phá Tây Bắc và yêu Tây Bắc.
Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về người lính vô danh trong khổ thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng hoàn thiện bức tượng đài về chân dung người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa. Chân dung người lính hiện lên ở khổ thơ thứ ba có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp tâm hồn, lí tưởng chiến đấu và phẩm chất hi sinh anh dũng. Có thể nói cả bài thơ là một tượng đài đầy màu sắc bi tráng về một đoàn quân trên một nền cảnh khác thường.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Làn da xanh mái tóc không mọc do bệnh sốt rét rừng. Số người chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì chiến trận, do điều kiện thiếu thốn khó khăn thiếu nước. Chiến tranh đi liền với nước mắt và đau thương, cũng như bao nhiêu người chiến sĩ khác người lính Tây Tiến phải chịu bao nhiêu khó khăn Tuy vậy họ vẫn hiên ngang ngang tàn bi nhưng không lụy, họ luôn ở tư thế chủ động sẵn sàng là “ không mọc tóc” chứ không phải là rụng tóc. Khẩu khí coi thường gian khổ, họ ốm nhưng không yếu. “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới, đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Đây là đặc trưng riêng là mộng và mơ” của những chàng lính Hà Nội. Ý chí quyết tâm “Mắt trừng” giết giặc lập công, mơ giấc mơ thắng trận trở về gặp những dáng kiều thơm, nhưng bóng dáng duyên xinh. Hẳn họ không phải là những người lính khô khan cứng rắn à còn rất lãng mạn.
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Những nấm mồ là có thật, tinh thần tự nguyện xả thân cho Tổ quốc cũng là có thật. Đó là hào khí của một thời đại “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Chính tinh thần lãng mạn đã là một điểm tựa giúp nhà thơ nói lên một vấn đề mà nhiều người lúc đó né tránh. Đã là chiến tranh thì phải có mất mát, hi sinh. Vấn đề là không rơi vào bi quan, là nhìn ra từ sự mất mát tầm vóc cao đẹp của sự hi sinh. Nhà thơ đã dùng những câu thơ sóng đôi, câu sau cắt nghĩa, lí giải cho câu trước. Những nấm mồ là có thật, tinh thần tự nguyện xả thân cho Tổ quốc cũng là có thật. Đó là hào khí của một thời đại “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Cái chết nơi chiến trường thật đơn sơ, giản dị. Anh nằm xuống không có cả màn chiếu bọc thây. Anh về lại đất mẹ như cái chết của anh đã được dòng sông Mã oai hùng cúi chào vĩnh biệt bằng những tiếng gầm đau đớn, uất hận. Tiếng gầm của dòng sông Mã ấy sẽ còn mãi mãi đến muôn đời.
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ như lời thề gắn bó với Tây Tiến. Tinh thần thắm đượm tư tưởng và tình cảm cảm của người lính Tây Tiến, tinh thần sẵn sàng hi sinh cống hiến. Tình cảm gắn bó máu thịt của tác giả đối với binh đoàn Tây Tiến, đại từ phiếm chỉ “ai” có thể là Quang Dũng có thể là thành viên của binh đoàn Tây Tiến, hoặc là bất cứ ai đã từng gắn bó với Tây Tiến với mảnh đất Tây Bắc. Sự chiến đấu vì lý tưởng cao cả tinh thần Tây Tiến thì bất diệt.
Từ sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại của dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình.
Tây Tiến là một tượng đài thi ca qua nhiều thế hệ. Nhưng trên hết và trước hết Tây Tiến là lịch sử. Lịch sử của một đoàn quân. Lịch sử của một cuộc chiến tranh. Lịch sử của một dân tộc. Và lịch sử của một con người, một nhà thơ. Tây Tiến trở thành lịch sử của tâm hồn, của văn hóa, của tinh thần một giống nòi. Nó đã biến đoàn quân thành bất tử.
-
Viết về Tây Tiến - Quang Dũng viết bằng dòng hồi ức. Và trong dòng hồi ức ấy nỗi nhớ đồng đội luôn xao động, gợi về những kỉ niệm, hình ảnh thân thương, tha thiết, sâu lắng. Ta bắt gặp dòng hoài niệm về đồng đội, về những cầm, nỗi lòng người lính Tây tiến qua đoạn thơ:
... Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá giữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh,
Áo bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Từ bối cảnh rừng núi hoang vu, hiểm trở trong đoạn đầu bài thơ đến đây hiện lên rõ nét hình ảnh của đoàn chiến binh Tây Tiến:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá giữ oai hùm.
Thoạt đầu, câu thơ tưởng như chỉ mang một chút ngang tàng, một chút nghịch đầy chất lính, nhưng càng đọc mới càng thấy hiện thực khắc nghiệt, mới thấy hết những gian nan, khổ ải của đoàn quân Tây Tiến. Không mọc tóc – đó là hậu quả của những cơn sốt rét rừng run người làm tiều tuỵ, làm rụng hết cả tóc của các chiến sĩ. Rồi nước độc, rừng thiêng, bệnh tật hành hạ... tất cả như vắt kiệt sức lực khiến cho quân xanh màu lá giữ oai hùm. Hai câu thơ cho ta thấy được hình ảnh rất thực của các chiến sĩ Tây Tiến khi phải đối phó với bệnh tật: ốm đau rụng tóc... Nhưng không phải vì thế mà họ mất đi vẻ oai phong dữ dội: mắt trừng gửi mộng qua biên giới..."
Đoàn quân mỏi, xanh tựa lá mà vẫn mang oai linh rừng thẳm. Mắt trừng dữ dội là để gửi mộng vượt biên cương và để "đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm". Những người chiến sĩ Tây Tiến hầu hết là những chàng trai thị thành khoác áo lính, nên dù ra đi chiến đấu, dấn thân vào gian khổ, họ vẫn luôn mang và giữ một tâm hồn hào hoa, thanh lịch, đa tình, một tầm hồn đầy thơ mộng . Mơ dáng kiều thơm là mơ dáng vẻ kiều diễm, quyến rũ, thanh lịch của những người bạn gái thủ đô ngàn năm văn hiến. Có người cho rằng Quang Dũng viết câu thơ này là mộng rớt vì nó không phù hợp với hoàn cảnh kháng chiến. Song thực chất đây là một tình cảm hết sức chân thật của người chiến sĩ, nó mang mang một ý nghĩa nhân văn chân chính bởi thể hiện ước mơ đẹp của con người về một cuộc sống hoà bình, hạnh phúc đẩy người lính ra đi chiến đấu.
Cả đoạn thơ bốn câu thì ba câu trên toàn nói về cái khác thường, oai dữ. Câu thơ thứ tư ngược lại đầy vẻ mềm mại, trữ tình, mơ mộng. Đoạn thơ khắc họa những hiện thực hết sức nghiệt ngã, nhưng lại không chỉ sử dụng phương pháp tả thực, mà thể hiện bằng bút pháp lãng mạn cho ta thấy hình ảnh của người không xanh xao tiều tụy mà oai phong dữ dội. Chữ nghĩa và bút pháp của Quang Dũng thật tài hoa. Các chữ không mọc tóc, dữ oai hùm, mắt trừng khắc hoạ rất sâu tư thế chủ động, vẻ kiêu hùng, ngang tàng của những chiến binh Tây Tiến. Hoàn cảnh gian khổ, những thử thách, gian nan của một miền thâm u, hiểm trở không làm cho những người lính Tây Tiến chùn bước, họ vẫn giữ ý chí, quyết tâm. Bên cái bi của hoàn cảnh vẫn trỗi lên cái tráng của ngoại hình và tinh thần. Bằng thủ pháp dường như đối lập, Quang Dũng đã vừa khắc họa được vẻ đẹp hào hùng, kiêu dũng, vừa khắc họa được tâm hồn hào hoa và đa cảm của người chiến sĩ Tây Tiến. Núi rừng miền Tây hùng vĩ và hoang sơ, đi trong sự hùng vĩ ấy, sự hoang sơ ấy, những người lính Tây Tiến như được truyền thêm sức mạnh, vững bước vượt qua những gian khổ, hy sinh:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh...
Những người lính Tây Tiến không tiếc đời ra đi chiến đấu cho quê hương, không tiếc đời sẵn sàng hi sinh cho Tổ quốc. Họ ra đi mà vẫn nhớ, vẫn mang theo những tình riêng mơ mộng, khi họ hi sinh thì "áo bào thay chiếu anh về đất". Bằng hai chữ "áo bào”, nhà thơ đã nâng cao giá trị, đã tái tạo được vẻ đẹp cao quý, một vẻ đẹp như những người tráng sĩ xưa nơi những người Tây Tiến, vẻ đẹp ấy làm mờ đi thực trạng thiếu thốn ở chiến trường. Rồi "anh về đất", cái chết nhẹ như không, như về lại những gì thương yêu, thân thuộc ngày xưa, "anh về đất" là để sống mãi trong lòng quê hương, đất nước và sông Mã thay lời núi núi sông cất lên lời ai điếu bi hùng: "Sông Mã gầm lên khúc độc hành".
Nỗi đau thật dữ dội, chỉ một tiếng "gầm thăng trầm uất", nỗi đau như dồn nén, quặn thắt từ bên trong. Không có nước mắt của đồng đội, chỉ có con sông Mã với nỗi đau cuộn chảy trong lòng, độc hành... chạy ngược vào tim.
Cả đoạn thơ nói đến cái chất thật bi mà cũng thật hùng. Những người lính Tây Tiến đã được nhà thơ khắc họa với nỗi nhớ thương tha thiết, với vẻ đẹp hoang sơ, dữ dội như vẻ đẹp của núi rừng.
Hình ảnh những người lính, tình cảm đồng đội, đồng chí vốn xuất hiện trong thơ ca kháng chiến. Ta vẫn thường bắt gặp những người lính chân chất giản dị, gần gũi trong thơ Chính Hữu:
Áo anh rách vai,
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng còn cười buốt giá,
Chân không giày...
Hay trong bài thơ Hồng Nguyên:
Lũ chúng tôi,
Bọn người tứ xứ,
Gặp nhau hồi chưa biết chữ,
Quen nhau từ buổi "một, hai"...
Nhưng với Tây Tiến của Quang Dũng thì khác. Bài thơ đã khắc hoạ không phải là những người lính xuất thân từ những người nông dân cày sâu cuốc bẫm mà là những chàng trai, những học sinh, sinh viên thành thị khoác áo lính. Với Tây Tiến, Quang Dũng đã đưa người đọc ngược lên một miền thăm thẳm, nơi núi rừng, thiên nhiên mang nét đẹp hoang dại, hiểm trở. Và nổi bật lên trên nền núi rừng miền Tây Bắc ấy là hình ảnh những người lính Tây Tiến vượt lên trên mọi khổ ải, gian lao, toả sáng ý chí anh hùng. Với tám câu thơ chan chứa niềm thương nỗi nhớ da diết, Quang Dũng đã đưa người đọc trở lại một thời Tây Tiến với biết bao đồng đội mến thương của nhà thơ... Tất cả đã giúp Quang Dũng tái tạo và khắc họa hình ảnh oai hùng về người lính Tây Tiến. Với bút pháp tài hoa và giàu tình, nhà thơ đã xây dựng hình ảnh những chiến binh Tây Tiến không chỉ mang vẻ dữ dội, mãnh liệt mà còn mang vẻ đẹp hào hoa, hào hùng thật bi tráng. Và Tây Tiến không chỉ phổ đúng hồn thơ Quang Dũng mà còn sáng lên chất thẩm mĩ hiếm thấy.
-
Những vần thơ hào hoa vang lên đi vào lòng người trở thành những lời cảm xúc ngọt ngào đi cùng năm tháng. Và vẫn còn đó, tây tiến vang lên như một khúc hành ca của những người lính. Nó là một trong những bài thơ hay đầy cảm xúc, những vần thơ ấy vang lên vẫn giống như một khúc ca đi cùng năm tháng, Tây Tiến đã trở thành một hiện tượng trong thơ Quang Dũng, cũng là một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính. Những câu thơ mang một vẻ hào hoa, mang một phong cách hồn hậu,phóng khoáng. Không những thế qua bài thơ Tây Tiến chúng ta thấy được vẻ đẹp bi tráng của những người lính Tây Tiến và về một thời hào hùng đã qua đi.
Một thời đạn bom đó đã để lại nỗi ám ảnh cho những người trực tiếp tham gia chiến đấu. Những câu thơ mở đầu giống như những lời của năm tháng vọng về, từ những năm tháng chiến đấu gian nan,những con người ấy qua tiếng vọng thời gian trở nên sống động và chân thực hơn bao giờ hết. Những cơn bệnh những buổi liên hoan những đêm nằm gác " gửi mộng qua biên giới" và có cả những sự mơ mộng của những người lính trẻ tuổi và đầy nhiệt thành. Càng đọc chúng ta nhưng càng đọc mới càng thấy hiện thực khắc nghiệt, mới thấy hết những gieo neo, khổ ải của đoàn quân Tây Tiến.
Giữa cái gay gắt những hình ảnh của người lính hiện ra vừa hồn nhiên vừa đáng để chúng ta trân trọng. Vốn xuất thân là những chàng trai đất Hà thành trong thời gian chiến tranh nên khoác áo lính thay áo của những nam sinh viên tới chiến trường chiến đấu, dù ra đi chiến đấu, dấn thân vào gian khổ, họ vẫn luôn mang và giữ một tâm hồn hào hoa, thanh lịch, đa tình, một tầm hồn đầy thơ mộng.
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi"
Những khó khăn của những người lính tây tiến lại trở nên đẹp đẽ và nên thơ trong những vần thơ của Quang Dũng. Đó là những gian nan mà những người lính phải trải qua, chính những gian nan đó lại càng tô đậm vẻ đẹp bi tráng của họ... những triền dốc khiến người ta mới nhìn đã thấy ngại, hai từ thăm thẳm trong câu thơ khiến độ hun hút của những con dốc lại càng trở nên nguy hiểm biết bao nhiêu.chưa dừng lại đó, những hình ảnh hun hút, đầu súng của những người lính đang đùa giỡn với mây trời
"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời"
Những gian nan khó khăn ấy mở nguồn cho hình ảnh đẹp vi tráng của những người lính ấy. Cũng có những lúc sự hồn nhiên của người lính được thể hiện qua những giây phút mệt mỏi, gục lên ba lô và ngủ,bỏ lại sau đó những khó khăn vất vả, những hiểm nguy của kháng chiến.Hình ảnh người lính gục lên súng mũ dãi dầu không bước nữa là một hình ảnh đẹp. Câu thơ nhằm nói giảm đi cái chết, cái hi sinh của những người chiến sĩ ấy. Đó là một vẻ đẹp bi tráng, cái hi sinh kia là bi nhưng trong cái bi ấy ta lại thấy một cái tráng lệ vô cùng. Họ có thể hi sinh nhưng trong một tư thế rất nhẹ nhõm, " bỏ quên đời" những kí ức về những lúc dừng chân mệt mỏi, những kỉ niệm với những buổi chiều và ban đêm với những con thú dữ gầm rú lên, nhớ những đêm mùa nếp xôi ở Mai Châu.
Không chỉ khó khăn trên chiến trường chiến đấu, những câu chuyện về bệnh tật và nơi khí hậu khắc nghiệt cũng được đưa vào trong thơ của Quang Dũng. Không một chút giấu giếm, sự thiếu thốn hay những căn bệnh như sốt rét, khiến cả binh đoàn bị rụng hết tóc, quang Dũng đã khai thác một vẻ đẹp hết sức chân thực của người lính Tây tiến, dù khó khăn khắc nghiệt nhưng tinh thần chiến đấu chưa bao giờ kết thúc. Hình ảnh quân xanh màu lá là những hình ảnh gầy gò ốm nhưng không hề yếu mà vẫn dữ oai hùm. Mắt trừng gợi cho ta liên tưởng đến sự căm thù giặc của những anh hùng tây tiến. Những ánh mắt hiện lên lửa hy vọng và tinh thần chiến đấu oai hùng, không một chút phó mặc cho số phận, cũng có thể đó chính là sự thức trắng không ngủ được vì lo cho biên giới hoặc mở mắt để nhớ những bóng kiều thơm kia..Đó sự hi sinh của những người chiến sĩ ấy, họ phần lớn là những trí thức Hà Thánh ngày đêm nghĩ đến quê nhà với những bóng hồng mà không bao giờ mờ nhạt trong lòng họ...
Với việc sử dụng biện pháp đối, nhà thơ Quang Dũng đã vừa khắc họa được vẻ đẹp hào hùng, kiêu dũng, vừa khắc họa được tâm hồn hào hoa và đa cảm của người chiến sĩ Tây Tiến. Chúng ta có thể thấy núi rừng miền Tây hùng vĩ và hoang sơ, đi trong sự hùng vĩ ấy, sự hoang sơ ấy, và những người lính Tây Tiến như được truyền thêm sức mạnh, vững bước vượt qua những gian khổ, hy sinh:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh...
Những người lính tây tiến không sợ hi sinh bản thân họ, nếu có thể họ không tiếc hi sinh thân mình để bảo vệ những người thân yêu mình ở hậu phương. Họ ra đi mà vẫn nhớ, vẫn mang theo những tình riêng mơ mộng, khi họ hi sinh thì "áo bào thay chiếu anh về đất.. Đất mẹ chính là nơi các anh sinh ra cũng là nơi mà các anh về, đất mẹ che chở cho các anh mãi mãi yên bình với giấc ngủ ngàn thu của mình. Một lần nữa, hình ảnh sông Mã hiện ra, gầm lên khúc hành ca, như kính cẩn tiễn đưa linh hồn các anh, không phải là sự chơi vơi nữa mà là tiếng gầm, nó càng tạo nên chất tráng cho bài thơ.
Lấy cảm hứng từ cuộc sống chân thực mà chính bản thân tác giả trải qua, những chàng trai, những học sinh, sinh viên thành thị khoác áo lính. Thêm một lần nữa Quang Dũng đã đưa chúng ta về với tây Tiến với những kí ức vừa lãng mạn vừa bi tráng. Dưới ngòi bút hào hoa của Quang Dũng những hình ảnh về những người lính Tây Tiến vừa hồn hậu, giản dị lại hết sức khí phách.Qua đây ta cũng thấy được những vẻ đẹp bi tráng của những chiến binh tây tiến, cảm nhận được như thế chúng ta càng thêm yêu hơn những con người vì quê hương đất nước.