Top 8 Bài văn phân tích ca dao "Thân em như tấm lụa đào" (Ngữ văn 10) hay nhất

Hà Ngô 18 0 Báo lỗi

Thân phận người phụ nữ trong chế độ phong kiến đã chịu rất nhiều thiệt thòi và bất hạnh. Sự khổ cực của phụ nữ thường được nêu trong những câu ca dao cất lên. ... xem thêm...

  1. Thân phận của người phụ nữ trong xã hội xưa luôn bị coi thường, rẻ rúng. Họ luôn phải chịu đựng những bất công trong xã hội, không được làm chủ chính mình. Những người phụ nữ đã cất lên lời than để bày tỏ nỗi niềm của mình, để cho người đời thấu hiểu cảm thông cho thân phận họ. Những lời than ấy được viết thành những câu hát dân ca, những bài ca dao lưu truyền rộng rãi. Một trong số đó chính là câu:


    “Thân em như tấm lụa đào

    Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”


    Câu ca dao được viết bằng thể thơ lục bát, một thể thơ truyền thống của tộc. Bài ca dao mở đầu bằng từ “thân em”. Đây là một cách mở đầu quen thuộc, thường thấy trong ca dao và nó trở thành mô típ được sử dụng nhiều trong những câu hát than thân. Ví như câu:


    Thân em như hạt mưa rào

    Hạt rơi xuống giếng hạt vào vườn hoa”

    Hay câu:

    “Thân em như giếng giữa đàng

    Người thanh rửa mặt người phàm rửa chân”


    Mô típ này chính là để bày tỏ nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội cũ. “Thân em” là thân phận cửa người phụ nữ nói chung. Ngay từ từ đầu tiên trong câu thơ thứ nhất đã nhấn mạnh đến đối tượng mà câu ca dao hướng đến. “Thân em” giống như một lời xưng hô nhỏ nhẹ, mềm mỏng của người con gái đang chuẩn bị giãi bày tâm sự của mình. Bên cạnh đó tác giả dân gian còn sử dụng biện pháp so sánh giữa “thân em” với “tấm lụa đào”. Phép so sánh ngang bằng để thấy được em như tấm lụa đào.


    Trước tiên chúng ta phải hiểu được thế nào là tấm lụa đào để có thể hiểu được nghệ thuật so sánh trong bài ca dao này. Tấm lụa đào là một loại vải óng ả, mềm mượt và đẹp. So sánh người phụ nữ với tấm lụa đào để khẳng định vẻ đẹp của người phụ nữ. Họ không chỉ đẹp bởi nhan sắc bên ngoài mà còn ở cả những phẩm chất đạo đức tốt đẹp. Nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương cũng đã từng ví người phụ nữ giống như chiếc bánh trôi nước:


    “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”


    Đó là vẻ đẹp bên ngoài tròn trịa, đầy đặn và phúc hậu của người phụ nữ. Hơn thế nữa còn có vẻ đẹp bên trong, vẻ đẹp tâm hồn “mà em vẫn giữ tấm lòng son. Thế mới thấy được vẻ đẹp của người phụ nữ nhẹ nhàng, thanh thoát giống như tấm lụa đào nổi bật hơn hẳn so với các loại vải khác. Đó là một thứ vải mềm, mỏng manh dùng để làm được nhiều vật dụng khác. Ứng với người phụ nữ trong xã hội cũ. Họ không chỉ đẹp đẽ ở bề ngoài mà còn là người có tấm lòng nhân hậu, là những người chịu thương chịu khó, chăm chút cho gia đình. Họ là những chiếc bóng âm thầm, lặng lẽ hi sinh cho người khác, họ chịu nhiều những đắng cay, tủi nhục nhưng lại không hề được trân trọng:


    “Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”


    Éo le thay tấm lụa đào vốn đẹp đẽ lại đặt ở giữa chợ, một nơi đông đúc, xô bồ và có muôn loại người trong xã hội. Có những người có con mắt tinh tường biết được giá trị của tấm lụa đào nhưng cũng đầy kẻ chẳng phân biệt được tốt xấu, ánh mắt phàm tục. Tấm lụa đào vô tri vô giác chỉ biết lẳng lặng đứng trong quầy hàng và chờ đợi, ngóng trông không biết mình sẽ rơi vào tay ai bây giờ. Vốn là một thứ đẹp đẽ, có giá trị nhưng lại không tự quyết định cho số phận mình, họ bị đẩy vào trạng thái thụ động chỉ quanh quẩn trong nhà.


    Như chúng ta đã biết, người phụ nữ trong xã hội xưa thường phải sống một cuộc sống khuôn phép, tuân theo nhiều quy tắc trong xã hội. Họ ngoài việc lao động, chăm sóc chồng con còn phải tuân thủ tam tòng, tứ đức. Tam tòng chính là: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Có thể thấy người đàn ông mới là trụ cột trong gia đình và người phụ nữ phải lấy người đàn ông làm gốc để thực hiện hoạt động của mình. Rồi tứ đức tức là người phụ nữ phải có đủ công - dung - ngôn - hạnh, không được làm trái với những điều trên.


    Câu ca dao đã đem lại cho chúng ta cái nhìn về số phận cam chịu, tủi nhục mà người phụ nữ xưa từng phải trải qua. Với cách so sánh giàu tính biểu tượng, câu ca dao đem lại cho người đọc nhiều tình cảm, cảm xúc. Những nỗi lo âu, bất lực trước số phận. Những con người cam chịu cả một đời nhận lấy đắng cay muôn phần. Ấy vậy mà họ chẳng hề được người ta cảm thông, sẻ chia.


    Câu ca dao trên, người xưa không chỉ dùng để than thân trách phận mà còn bộc lộ nỗi niềm khao khát nhận được sự đồng cảm và được hưởng sự công bằng trong xã hội.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ

  2. Trong xã hội xưa người phụ nữ luôn là những người bé cổ thấp họng phải chịu nhiều thiệt thòi. Họ không dám cất lên tiếng nói đòi quyền sống, quyền đấu tranh. Thân phận người phụ nữ đã đi vào văn học dân gian xưa qua những bài ca dao quen thuộc:


    “Thân em như tấm lụa đào

    Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”


    Ca dao là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian rất phổ biến, đúc kết trong đó nhiều tình cảm và cũng là lời than thân trách phận. Các tác giả dân gian có lẽ đã thấu suốt được nỗi đau đó, thông cảm với thân phận người phụ nữ. Bài ca dao mở đầu bằng công thứ quen thuộc “thân em” tựa như những khúc tự hát buồn. Ta còn bắt gặp ở trong rất nhiều bài ca dao khác, trở thành tiếng nói thân phận chung của người phụ nữ xuất hiên trong xã hội xưa. Bài ca dao là sự tự ý thức về thân phận mình giữa cuộc đời người phụ nữ tự ví mình với những vật nhỏ bé “ tấm lụa đào” gợi vẻ dịu dàng, duyên dáng. Lụa là thứ vải quý qua đó cho thấy vẻ đẹp duyên dáng, trẻ trung nữ tính của người phụ nữ. Người phụ nữ rất có ý thức về giá trị của mình, tự khẳng định bản thân. Hai câu ca dao tưởng đây là lời ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ, tuy nhiên dải lụa đào đẹp. sang trọng, kiêu hãnh như thế lại bị đặt vào giữa chợ, trở thành đối tượng sở hữu của nhiều người có nhu cầu mua bán. Hình ảnh khiến người đọc thấm thía số phận lệ thuộc, bị định đoạt, nổi trôi, mong manh của người phụ nữ. Thân phận của người phụ nữ đã được văn học thành văn nhắc đến. Hồ Xuân Hương thì đồng cảm với phận bảy nổi ba chìm của thân em vừa trắng lại vừa tròn. Nguyễn Du thương xót thốt lên: “ Đau đớn thay phận đàn bà” và Tú Xương cũng thổn thức khi viết về bà Tú: “Lặn lội thân cò khi quãng vắng.”


    Đặc biệt câu hỏi tu từ “ biết vào tay ai” đã diễn tả nỗi xót xa, lo âu về số phận không thể định đoạt. Người phụ nữ không chỉ khổ về cái nghèo, cơ cực mà còn khổ về những dày vò trong tâm hồn. Chính xã hội phong kiến với hủ tục hà khắc ràng buộc lễ nghi đã đẩy họ chìm vào nỗi khổ không thể thoát ra. Và cùng là nỗi đau xót nhất là nhân vật trữ tình trong lời than thân khi người con gái ở trong lứa tuổi đẹp nhất của cuộc đời thì nỗi lo âu về thân phận lại ập ngay đến với họ. Sự đối lập giữa hai dòng thơ cho ta thấm thía nỗi lo và nỗi đau về thân phận người phụ nữ giữa cuộc đời. Câu hỏi mà cũng là lời than, lời mong trước cuộc đời đầy bất trắc là biểu hiện của trạng thái sống lo âu, bị động xét đến cùng là tiếng than thân. Câu hỏi như tiếng vọng bi ai, vang mãi đến thời đại sau này, khiến ta thương cảm xót xa trước sự cam chịu của người phụ nữ, những giọt nước mắt chảy vào trong đúc kết lại thành bài ca dao lưu giữ muôn đời.


    Bài ca dao với việc sử dụng khéo léo những hình ảnh so sánh, ví von ẩn dụ từ nhguwx sự vật quen thuộc hàng ngày đãtruyền tải sâu sắc thấm thía nỗi niềm của người phụ nữ trong xã hội xưa.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  3. Chế độ phong kiến hà khắc, tư tưởng trọng nam khinh nữ đã từng bước dồn ép người phụ nữ vào con đường không lối thoát, họ phải sống trong sự áp đặt, bị vùi dập bị coi thường, nhưng không thể phản kháng bởi họ không có cái quyền đó. Trong khi người ta đề cao vai trò của người đàn ông bao nhiêu thì người phụ nữ lại càng trở nên rẻ rúng bấy nhiêu. Đã có biết bao người phụ nữ phải đau khổ, ngậm đắng nuốt cay, không khỏi than vãn cho cuộc đời mình, xưa có nàng Kiều bạc mệnh, có bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương, dù tài sắc vẹn toàn nhưng đời cũng lắm truân chuyên. Để rồi nhiều cay đắng tủi nhục quá, người phụ nữ đã có những câu hát, câu ca dao than thân ví von thật sâu sắc, cũng thật bi ai.


    “Thân em như tấm lụa đào

    Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.”


    Từ “em” là chỉ người phụ nữ thời xưa, họ tự ví mình như “tấm lụa đào”, ở đây có đến tận hai nghĩa. Thứ nhất là phiếm chỉ vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam khi xưa, đã là lụa, lại còn là lụa đào, một màu đỏ hồng phơn phớt tựa như đôi má đào của người con gái còn son trẻ. Vẻ đẹp ấy không chỉ là sự mềm mại, uyển chuyển, kinh diễm mà còn là những nét đẹp từ sâu trong tâm hồn người phụ nữ, là lòng thủy chung son sắt, đức hy sinh cao cả, công dung ngôn hạnh, tam tòng tứ đức thời phong kiến ấy phụ nữ nào mà không có đủ. Một nghĩa khác, “tấm lụa đào” ấy tuy đẹp nhưng lại vô cùng mỏng manh, yếu đuối, dễ bị tổn thương, khiến ta dễ liên tưởng đến số phận long đong, nhẹ tựa lông hồng của người phụ nữ. Đó là một thân phận mà tiếng nói không có giá trị, thân phận không có giá trị, bị người ta xem nhẹ, nhiều lúc những tưởng chẳng khác gì một món đồ đẹp mà nhẹ bẫng, bỏ chút tiền đã có được. Thân phận “tấm lụa đào” là như vậy.


    Câu “Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai” càng nói lên nỗi đau đớn, xót xa cho thân phận của người phụ nữ. Tại sao nhẹ nhàng đẹp đẽ, bay bổng đến thế mà lại chẳng thể quyết định số phận của mình. “Phất phơ giữa chợ”, người phụ nữ tự ví mình không khác gì món hàng đem đặt giữa chợ cho người đời chọn lựa, nâng lên đặt xuống, kì kèo mặc cả, chẳng may nếu không “bán” được thì lại chịu số phận bị bỏ đi hay sao. Mấy chữ “biết vào tay ai”, càng làm người ta hiểu được cái số lênh đênh của kiếp hồng nhan xưa, sống mà không được lựa chọn hạnh phúc cho riêng mình. Đến cả người vốn tài sắc và bản lĩnh như nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng chẳng thoát khỏi kiếp đong đưa. Bà bất hạnh có hai đời chồng, rồi cả hai lần đều chịu kiếp làm lẽ, đêm ngày sống trong cay đắng, thiếu thốn tình cảm, phải thốt lên rằng “chém cha cái kiếp chồng chung”, thì hẳn bà đã phải căm giận đến mức độ nào. Không chỉ riêng mình Hồ Xuân Hương mà có lẽ cả vạn kiếp phụ nữ thời ấy đều có chung một nỗi đớn đau, hờn tủi như vậy. Khi mà chế độ phong kiến, lệnh cha mẹ là lệnh trời, cha mẹ đặt đâu con phải ngồi đó, không có quyền phản kháng lựa chọn, biết là gặp được người chung tình, biết làm ăn, yêu thương vợ con hay gặp phải kẻ sở khanh, ăn chơi trác táng, làm khổ vợ con. Ôi, kiếp hồng nhan khi ấy chỉ trông vào mỗi sự may mắn của số phận, tựa hạt mưa sa, trời thương thì vào lầu son gác tía, trời không thương thì chịu lạc ra ruộng cày chẳng biết.


    Toàn bộ câu ca dao nghe thì phong tình, phong nhã đấy nhưng đọc thật kỹ, để suy tư nghiền ngẫm thì mới thấy được lời than oán thật tinh tế mà người xưa gửi gắm. Thân phận phụ nữ là tấm lụa mượt mà, quý giá nhưng lại chẳng ai chịu hiểu cho vẻ đẹp tiềm ẩn ấy. Đó là lời than, lời oán trách thật nhẹ nhàng, nhưng rất đỗi ngậm ngùi xót xa, đại biểu cho tiếng nói, sự phản kháng yếu ớt và tế nhị của người phụ nữ khi xưa đối với những bất công ngang trái mà họ phải gánh chịu. Làm thân con gái đã thiệt thòi, lại phải chịu nhiều đắng cay, tủi nhục thì sao có thể không xót xa, không hờn giận cho cam.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  4. Trong kho tàng ca dao của Việt Nam có rất nhiều bài ca dao phản ánh một cách chân thực đời sống tâm hồn của con người. Mỗi một bài ca dao đề cập đến một nội dung riêng của đời sống mà trong đó nội dung than thân khiến người đọc cảm thấy xúc động và xót xa hơn cả. Người phụ nữ sống trong xã hội cũ đã phải chịu quá nhiều thiệt thòi và họ chỉ có một cách duy nhất để thương cho chính mình đó là gửi tâm tư vào trong những bài ca dao như:


    Thân em như tấm lụa đào

    Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai


    Có rất nhiều bài ca dao bắt đầu bằng hai chữ thân em như vậy chẳng hạn “Thân em như hạt mưa sa”, “Thân em như giếng nước giữa đàng”, “Thân em như lá đài bi”,… Tất cả đều nằm trong nhóm ca dao than thân và ta thấy ở mỗi một bài ca dao người phụ nữ lại bị đẩy vào những hoàn cảnh khác nhau. Họ chủ yếu bị phụ thuộc, sống nhưng không có tiếng nói, không được coi trọng. Mặc dù cũng bắt đầu bằng hai chữ thân em nhưng bài ca dao Thân em như tấm lụa đào vẫn mang những nét riêng biệt. Ở đây người phụ nữ đã ví thân mình như tấm lụa đào. Rõ ràng sự so sánh này so với những sự so sánh khác như tôi lấy ví dụ ở trên có sự khác biệt hoàn toàn. Khi ví thân mình như tấm lụa đào, người phụ nữ đã nhận thức được vẻ đẹp của bản thân mình. Đó là vẻ đẹp mềm mại, nổi bật và đầy sức sống. Có thể nói người phụ nữ trong bài ca dao đang ở thời kì thanh xuân đầy rực rỡ. Đây cũng là giai đoạn đẹp nhất của người phụ nữ. Đáng lẽ ở giai đoạn này người phụ nữ phải được hưởng hạnh phúc nhiều nhất nhưng câu ca dao sau lại dập tắt mọi hi vọng.


    Tấm lụa đào vừa đẹp đẽ lại vừa giá trị nhưng nó không được nằm ở vị trí trang trọng mà lại phất phơ giữa chợ. Chợ là nơi đông đúc người qua kẻ lại, là nơi mà mọi thứ đều có thể mua được bằng tiền. Như vậy tấm lụa đào cũng chỉ như một món hàng hóa mà bất cứ ai cũng đều có thể sở hữu. Tấm lụa đào không có quyền tự quyết, không biết rồi đây mình sẽ rơi vào tay ai. Rơi vào tay người biết trân trọng thì cuộc sống bớt tủi hờn còn rơi vào tay người không biết trân trọng thì coi như cuộc sống không còn những niềm vui.


    Bài ca dao đã bộc lộ rõ sự lo lắng của người phụ nữ về số phận của mình. Dù có đẹp đến mấy, có giá trị đến mấy thì cũng còn phụ thuộc vào tay người sở hữu. Cách ngắt nhịp 2/2/2 khiến cho bài ca dao nghe nhẹ nhàng nhưng lại vô cùng thấm thía và bộc lộ được tâm trạng của nhân vật trữ tình.

    Thông qua bài ca dao chúng ta thấy được vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội cũ. Họ đã nhận thức được giá trị của bản thân mình, chỉ tiếc là xã hội chưa công nhận họ nên họ vẫn chưa có cái quyền mưu cầu hạnh phúc, chưa có quyền tự quyết. Qua đây chúng ta hiểu và càng trân trọng hơn những người phụ nữ ấy.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  5. Việt Nam ngày trước với chế độ phong kiến cổ hủ, “trọng nam khinh nữ” trở thành định kiến khó có thể lay chuyển nổi. Chính vì thế mà số phận người phụ nữ trong xã hội ấy rất đau khổ và bi thương. Thân phận người phụ nữ đã đi vào văn học dân gian xưa qua những bài ca dao quen thuộc trong đó có bài cao dao với bao lời than thân tủi nhục:


    Thân em như tấm lụa đào

    Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai


    Ca dao xưa là hình thức sinh hoạt văn hóa mang tính tập thể rất phổ biến, phản ánh đời sống vật chất và tinh thần của con người trong xã hội phong kiến với nhiều lễ giáo. Chính những phong tục cổ hủ và lễ giáo phong kiến ấy đã đè ép biết bao nhiều số phận người phụ nữ, khiến họ bất hạnh, bị dồn vào đường cùng., Bài ca dao trên mở đầu với mô tuýp “thân em” quen thuộc. Nghe hai từ “thân em” thật đỗi dịu dàng khiến ta liên tưởng đến người con gái nhỏ bé, yếu ớt. “Em” chứ không phải “tôi” , “cô”, xưng “em” ta cảm nhận được sự nhún nhường yếu đuối của người phụ nữ. Lời than thân nghe mà chan chứa nước mắt nhẹ bẫng trong không gian mà nặng trĩu trong lòng người. Với biện pháp so sánh “thân em” với “tấm lụa đào”, câu ca dao đã ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ. Tấm lụa đào là một mảnh vải lụa mỏng manh, mềm mại nhẹ nhàng dùng để may những chiếc áo, như chính người phụ nữ thời xưa . Họ mang vẻ đẹp tâm hồn cao quý nhưng chỉ là cái bóng lặng lẽ, thậm chí là vô hình, cứ vậy mà sống với đầy rẫy những bất công bởi nền tảng phong kiến cố hữu. Tấm lụa đào tuy đẹp đẽ là thế nhưng cuối cùng chúng chỉ là những thứ được bày bán ở chợ đông người:


    Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai


    Không gian ở đây là nơi chợ đông đúc, xô bồ với đủ thể loại người kẻ mua, người bán với các loại mặt hàng khác nhau đa dạng phong phú thì đâu đó “tấm lụa đào” đẹp đẽ mỏng manh đang bay “phất phới”. Một từ láy diễn tả hết thảy hoàn cảnh người phụ nữ đang phải đối mặt. Họ trở thành đồ trang trí được bày bán giữa chợ, làm thứ để người ta tùy ý nâng lên đặt xuống, hay tuy ý bay trong gió sương. Liệu có ai giữa nơi đông kịt ấy nhận ra giá trị của tấm lụa đào, hay nó cứ mãi phất phơ trước gió, mất định hướng mặc cho đẩy đưa giữa giông gió “hoa trôi mang mác biết là về đâu” .Những người phụ nữ yếu mềm ấy làm sao đủ sức, chủ động đối mặt với khó khăn,cũng không định hướng nổi cho cuộc đời mình rồi sẽ ra sao. Câu hỏi tu từ vang lên không chỉ để hỏi mà đó là tiếng kêu , tiếng than da diết đầy bi ai.


    Chẳng thế đoán định nổi tương lai họ sẽ gặp một càng Kim Trọng thư sinh phong nhã hay gặp kẻ như Mã Giám Sinh lừa lọc gian xảo, một Trương Sinh ích kỉ hẹp hòi. Cứ hoài nghi tương lai khiến người phụ nữ ngày ngày sống trong hy vọng rồi lại lo lắng canh cánh một nỗi sợ trong lòng. Họ hoàn toàn thụ động, trở thành những “kẻ yếu” trong xã hội cũ như Thúy Kiều trong Đoạn trường tân thanh vậy. Không còn khả năng chống lại hay phản kháng, phó mặc số phận cho đời rồi chìm mình vào những nỗi khổ đau bất hạnh không lối thoát. Câu hỏi như tiếng vọng bi ai, vang mãi đến thời đại sau này, khiến ta thương cảm xót xa trước sự cam chịu của người phụ nữ, những giọt nước mắt chảy vào trong đúc kết lại thành bài ca dao lưu giữ muôn đời.


    Như vậy, bài ca dao là một thời than, một câu hỏi dài vang lên những bi thương của người phụ nữ trong xã hội cũ. Qua đó ta nhận ra giá trị ,vẻ đẹp tâm hồn của họ, đồng cảm và xót thương cho “thân em” đồng thơi ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam thời xưa.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  6. Ca dao dân ca là tấm gương phản ánh đời sống tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của nhân dân lao động. Ca dao đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau trong cuộc sống, một trong những khía cạnh đó chính là lời than thân ai oán, xót xa của những người phụ nữ trong xã hội cũ. Một trong những bài ca dao tiêu biểu thể hiện lời than thân ấy chính là bài:


    Thân em như tấm lụa đào

    Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.


    Cuộc đời của người phụ nữ xưa phải chịu vô vàn tủi cực, đắng cay bất hạnh, nó đã được phản ánh trong rất nhiều bài ca dao khác nhau như:


    Chàng ơi phụ thiếp làm chi

    Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng

    Hay:

    Thân em như lá đài bi,

    Ngày thì dãi nắng, đêm thì dầm sương

    Ngày ngày hai bữa cơm đèn

    Lấy gì mà phấn răng đen hỡi chàng.


    Bài ca dao cũng nói về thân phận, số phận bất hạnh của người phụ nữ, song ở bài ca dao này vẫn có những điểm riêng biệt. Đây là một trong số ít bài ca dao mà người phụ nữ ý thức sâu sắc về vẻ đẹp của bản thân: “Tấm lụa đào”. Tấm lụa mang vẻ đẹp mềm mại, óng ả, nổi bật về màu sắc. Không chỉ vậy tấm lụa đào còn tượng trưng cho tuổi trẻ, tuổi thanh xuân đẹp đẽ, giàu sức sống, đây là giai đoạn đẹp nhất với mỗi người con gái. Và nhân vật trữ tình – người con gái cũng ý thức rất rõ về vẻ đẹp của bản thân.


    Nếu trong câu thơ thứ nhất lời thơ vui vẻ, khẳng định bản thân bao nhiêu thì câu thơ thứ hai lại ngậm ngùi, chua xót bấy nhiêu: “Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”. “Tấm lụa đào” vừa đẹp về hình thức, vừa giàu giá trị nhưng lại “phất phơ giữa chợ” – nơi kẻ qua người lại buôn bán trao đổi hàng hóa, vật dụng. Ở nơi đó mọi vật đều có thể mua bán bằng tiền. Bởi vậy “tấm lụa đạo” đã trở thành một món hàng hóa, có thể mua bán và trở thành vật sở hữu của bất cứ đối tượng nào. Tấm lụa không được lựa chọn, không được tự quyết định số phận của mình. Hình ảnh ẩn dụ kết hợp với câu hỏi tu từ “biết vào tay ai” chứa đựng biết bao lo lắng về thân phận phụ thuộc, mong manh của người phụ nữ xưa. Đó cũng là lời than, ai oán của biết bao người phụ nữ:


    Thân em như giếng giữa đàng

    Người thanh rửa mặt, người phàm rửa chân.


    Nghệ thuật của bài cũng là một nét đặc sắc không thể không kể đến. Trước hết sử dụng motip quen thuộc “thân em”. Motip này thường kết hợp với các sự vật, hiện tượng giản dị, gần gũi với con người: “tấm lụa” “miếng cau” “hạt mưa sa” “củ ấu gai”,… kết hợp với biện pháp so sánh, cho thấy rõ nét vẻ đẹp, cũng như số phận bất hạnh của người phụ nữ. Ngôn ngữ bài ca dao có sự chọn lọc kĩ lưỡng, giàu giá trị biểu cảm nhưng lại vô cùng giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân. Bài ca dao ngắn, chỉ có hai câu, sử dụng thể thơ lục bát với nhịp chẵn 2/2/2 dịu dàng, êm ái với cách gieo vần chân đã diễn tả một cách chính xác tâm trạng của nhân vật trữ tình. Tất cả những yếu tố nghệ thuật đó, kết hợp hài hòa với nhau tạo nên sự thành công cho tác phẩm.


    Bằng thứ ngôn ngữ giản dị, giàu giá trị biểu cảm bài ca dao đã cho thấy vẻ đẹp và thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Họ mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp nhưng lại chịu nhiều bất công, không được quyền quyết định cuộc đời, lựa chọn hạnh phúc cho bản thân. Bài ca dao giúp ta thấu hiểu sâu sắc hơn nỗi khổ của cuộc đời người phụ nữ xưa, và trân trọng cuộc sống bình đẳng hiện nay.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  7. Thân phận người phụ nữ trong chế độ phong kiến đã chịu rất nhiều thiệt thòi và bất hạnh. Đã có nhiều điển hình về sự bất hạnh đó. Một nàng Kiều gian truân, ngậm đắng nuốt cay khóc thầm cho cuộc đời mình. Một Vũ Nương chịu hàm oan phải nuốt nước mắt tìm đến cái chết. Và còn bao nhiêu, bao nhiêu được biết và không biết nữa. Đến nỗi chuyện người phụ nữ bị bạc đãi đã trở thành thông lệ. Còn phụ nữ, họ không có khả năng chống chọi nữa hay là sức phản kháng của họ đã yếu dần, yếu dần cho đến khi lời cáo buộc trở thành một lòi than thân buồn tủi:


    Thân em như tấm lụa đào

    Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.


    Lời than thân đó nghe chứa chan nước mắt và mỏng mảnh như khói tỏa vào không gian, như thân phận người phụ nữ vậy. Ca dao là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian rất phổ biến, đúc kết trong đó nhiều tình cảm và cũng là lời than thân trách phận. Các tác gia dân gian có lẽ đã thấu suốt được nỗi đau đó, thông cảm với thân phận người phụ nữ nên mở đầu ca dao là một lời xưng hô nhỏ nhẹ, mềm mỏng; Thân em, từ thân gợi nên một cảm giác nhỏ nhoi, yếu đuôi. Người con gái khi tự giới thiệu mình cũng rụt rè, khiêm nhường thốt lên hai tiếng “thân em”. Thân phận của người phụ nữ đã được văn học thành văn nhắc đến. Hồ Xuân Hương thì đồng cảm với phận bảy nổi ba chìm của thân em vừa trắng lại vừa tròn.


    Nguyễn Du thương xót thốt lên: đau đớn thay phận đàn bà và Tú Xương cũng thổn thức khi viết về bà Tú: lặn lội thân cò khi quãng vắng. Còn ca dao lại nói về đời người con gái qua bình ảnh liên tưởng như dải lụa đào. Biện pháp so sánh ở đây thật nhẹ nhàng và thanh thoát, thấm vào lòng người đọc, người nghe. Dải lụa đào mang dáng vẻ đẹp, nhẹ nhàng như chính tâm hồn và phẩm chất người phụ nữ, lại là một thứ vật liệu mềm mỏng dùng để may mặc, trang trí thêm cho người hay khung ảnh. Và phải chăng người phụ nữ trong cuộc đời cũ cũng vậy, họ là một món đồ trang sức, là chiếc bóng lặng lẽ, âm thầm trước những bất công. Dải lụa đào là một hình ảnh so sánh thật thanh cao, thật mềm mại nhưng quấn trong đó một nỗi niềm nặng trĩu. Vì thê câu tiếp theo là tất cả tâm trạng đau khổ vắt ra mà thành:


    Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.


    Dải lụa đào lại ở giữa chợ, giữa cảnh xô bồ kẻ bán người mua. Liệu ai có con mắt xanh để biết giá trị của tấm lụa đào. Từ phất phơ không có hướng cồ’ định cũng như hoa trôi man mác biết là về đâu. Bị số phận đưa đẩy đến như vậy mà nữ nhi lại không đủ sức, không thể chủ động định được một hướng đi cho mình để rồi đêm ngày tự hỏi cuộc đòi mình sẽ vào tay ai. Một Gã Giám Sinh buôn sắc bán hương. Một Trương Sinh đa nghi, ích kỉ hay là một Kim Trọng hào hoa phong nhã? Họ hoàn toàn biết về số phận của mình cũng như mảnh lụa mềm nhẹ kia không biết có được một người tri kỉ chọn lựa hay không? Trong suốt cuộc đời mình, người phụ nữ xưa bị đẩy vào trạng thái thụ động, chỉ quanh quẩn ‘trong nhà và quanh quẩn vói việc thờ chồng, thờ cha, theo con. Dải lụa bay nhè nhẹ trong gió, phó mặc ngọn gió đưa mình đến một bàn tay thô bạo. Bay vào đôi mắt hữu tình, phong nhã. Câu hỏi buông ra biết vào tay ai thật tinh tế và khéo léo, nó tạo cho người đọc một cảm giác xót xa. Câu hỏi đó có lẽ đã bám suốt cuộc đòi người con gái.


    Toàn bộ câu ca dao là một lời than. Nó được sinh ra từ số phận cam chịu của người phụ nữ thòi phong kiến. Không một ai trong số những tác giả vô danh sáng tác câu ca dao trên lại có thể thanh thản khi nghĩ về đứa con tinh thần của mình. Câu ca dao là sản phẩm quá trình đông tụ những giọt nước mắt ngược vào lòng. Từng lòi từng chữ trong câu ca toát lên ý ngậm ngùi. Nước mắt đã chảy. Câu ca dao là tiếng lòng của bao nhiêu người, là tiếng than của bao nhiêu thân phận! Với cách so sánh thật linh động và cũng rất gần với đời thường, câu ca dao đã tạo ra một hình ảnh gây nhiều cảm xúc. Tưởng chừng như những đám mây đang quấn lấy cảm xúc của con người, ôm trọn trong lòng nó tâm trạng của những người phụ nữ để rồi dần dần len lỏi vào từng ngóc ngách của dải lụa đào đang phất phơ giữa chợ. Bao nhiêu câu hát than thân của người phụ nữ được sáng tác và lan truyền nhưng câu nào cũng có sự liên hệ, liên tưởng đến những thứ nhỏ bé mỏng manh như: nước, hạt mưa, miếng cau, trái bầu…


    Vì thế câu ca dao đã lột tả được tâm trạng của hầu hết giói nữ: người thiếu nữ vừa tới tuổi trâm cài lược giắt đã lo âu cho sô” phận của mình. Lo ngại cho hạnh phúc hẩm hiu của mình. Tất cả tạo nên một dòng cảm xúc buồn thương không ngừng chảy từ người này sang người khác, từ đời này sang đời khác vào không gian một tiếng vang vọng mãi. Người phụ nữ thòi phong kiến đã chịu nhiều đau khổ, chấp nhận làm đẹp cho những người xung quanh. Sô” phận của họ như vải lụa bay trong gió không biết sẽ về đâu. Câu ca dao trong đề là lời than thân yếu ớt. Phải chăng người phụ nữ xưa cũng từng ao ước:


    Ví đây đôi phận làm trai được.


    Những ước muôn đó tồn tại được bao lâu hay là lại phải quay trở về với những câu than thân bất lực?

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  8. Có thể nói thân phận người phụ nữ trong chế độ phong kiến đã chịu rất nhiều thiệt thòi và bất hạnh biết bao nhiêu. Và còn có nhiều điển hình về sự bất hạnh đó. Hình ảnh một nàng Kiều gian truân, nàng đã phải ngậm đắng nuốt cay khóc thầm cho cuộc đời mình. Đó chính là một nàng Vũ Nương chịu hàm oan phải nuốt nước mắt tìm đến cái chết. Và còn đó bao nhiêu, bao nhiêu được biết và không biết nữa. Và cho đến nỗi chuyện người phụ nữ bị bạc đãi dường như đã trở thành thông lệ. Cho nên họ đã phải than vãn cho số phận của mình.


    Thân em như tấm lụa đào
    Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.


    Và chính những lời than thân đó nghe chứa chan nước mắt và mỏng mảnh như sợi khói tỏa vào không gian, như thân phận người phụ nữ vậy.

    Những câu ca dao dường như chính là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian rất phổ biến, những câu ca dao đó như đã đúc kết trong đó nhiều tình cảm và cũng là lời than thân trách phận. Ta như thấy được các tác giả dân gian có lẽ đã thấu suốt được nỗi đau đó, và cũng đã thông cảm với thân phận người phụ nữ nên mở đầu ca dao là một lời xưng hô nhỏ nhẹ, mềm mỏng và có phần yếu đuối “Thân em”. Có thể thấy rằng từ “Thân” như cũng đã gợi nên một cảm giác thật là nhỏ nhoi, yếu đuối. Ta như cũng đã thấy được người con gái khi tự giới thiệu mình cũng rụt rè, khiêm nhường thốt lên hai tiếng “thân em”. Dường như chính thân phận của người phụ nữ đã được văn học thành văn nhắc đến. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương thì cũng đã đồng cảm với phận bảy nổi ba chìm của thân em vừa trắng lại vừa tròn.


    Đại thi hào Nguyễn Du thương xót thốt lên “Đau đớn thay phận đàn bà” và tác giả Tú Xương dường như cũng đã thổn thức khi viết về người vợ của mình là bà Tú “lặn lội thân cò khi quãng vắng”. Còn trong những ca dao lại nói về đời người con gái qua hình ảnh liên tưởng như tấm lụa đào. Sử dụng biện pháp so sánh ở đây thật nhẹ nhàng và thanh thoát, thấm vào lòng người đọc, người nghe. Hình ảnh tấm lụa đào lại như đã mang dáng vẻ đẹp, nhẹ nhàng như chính tâm hồn và phẩm chất người phụ nữ xưa kia vậy. Và tấm lụa như giúp ta liên tưởng lại là một thứ vật liệu mềm mỏng dùng để may mặc, trang trí thêm cho người hay khung ảnh. Và phải chăng, ta như có thể thấy được đúng với hình ảnh người phụ nữ trong cuộc đời cũ cũng vậy, những người phụ nữ là một món đồ trang sức, là chiếc bóng lặng lẽ, âm thầm trước những bất công. Có thể thấy tấm lụa đào là một hình ảnh so sánh thật thanh cao, thật mềm mại nhưng quấn trong đó một nỗi niềm nặng trĩu. Có lẽ chính vì thế câu tiếp theo là tất cả tâm trạng đau khổ vắt ra mà thành:


    Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.


    Ta như cũng thấy được hình ảnh tấm lụa đào lại ở giữa chợ, giữa cảnh xô bồ kẻ bán người mua. Và liệu rằng ai có con mắt xanh để biết giá trị của tấm lụa đào. Từ phất phơ dường như không có hướng cố định cũng như hoa trôi man mác biết là về đâu. Người phụ nữ luôn bị số phận đưa đẩy đến như vậy mà nữ nhi lại không đủ sức, và cũng không thể chủ động định được một hướng đi cho mình để rồi đêm ngày người phụ nữ cũng như tự hỏi cuộc đời mình sẽ vào tay ai. Một gã Giám Sinh buôn sắc bán hương. Chúng ta vẫn còn nhớ một Trương Sinh đa nghi, ích kỉ hay là một Kim Trọng hào hoa phong nhã? Và dường như họ hoàn toàn biết về số phận của mình cũng như mảnh lụa mềm nhẹ kia như lại không biết có được một người tri kỉ chọn lựa hay không? Và ngay cả trong suốt cuộc đời mình, người phụ nữ xưa bị đẩy vào trạng thái thụ động, và dường như cũng chỉ quanh quẩn trong nhà và quanh quẩn với việc thờ chồng, thờ cha, theo con. Và dường như tấm lụa bay nhè nhẹ trong gió, phó mặc ngọn gió đưa mình đến một bàn tay thô bạo. Bay vào đôi mắt hữu tình, phong nhã. Có thể thấy rằng câu hỏi buông ra biết vào tay ai thật tinh tế và khéo léo, nó dường như cũng đã tạo cho người đọc một cảm giác như chứa biết bao niềm xót xa. Cầu hỏi đó có lẽ đã bám suốt cuộc đời người con gái.

    Dường như toàn bộ câu ca dao là một lời than. Nó cũng đã được sinh ra từ số phận cam chịu của người phụ nữ thời phong kiến. Và có thể khẳng định rang không một ai trong số những tác giả vô danh sáng tác câu ca dao trên dường như lại có thể thanh thản khi nghĩ về đứa con tinh thần của mình. Câu ca dao đặc sắc và chất chứa biết là một sản phẩm quá trình đông tụ những giọt nước mắt ngược vào lòng. Từng lời từng chữ trong câu ca toát lên ý ngậm ngùi. Những giọt nước mắt đã chảy. Có thể nhận thấy những câu ca dao là tiếng lòng của bao nhiêu người, là tiếng than của bao nhiêu thân phận.

    Dễ dàng nhận thấy chính với cách so sánh thật linh động và cũng rất gần với đời thường, câu ca dao đã tạo ra một hình ảnh gây nhiều cảm xúc. Người đọc như tưởng chừng như những đám mây đang quấn lấy cảm xúc của con người, nó như cũng như đang ôm trọn trong lòng nó tâm trạng của những người phụ nữ để rồi dần dần len lỏi vào từng ngóc ngách của tấm lựa đào đang phất phới giữa chợ. Có biết bao nhiêu câu hát than thân đắng cay tủi cực của người phụ nữ được sáng tác và cũng đã được lan truyền nhưng câu nào cũng có sự liên hệ, liên tưởng đến những thứ nhỏ bé mỏng manh như những nước, hạt mưa, miếng cau, trái bầu… Và cũng chính vì thế câu ca dao đã lột tả được tâm trạng của hầu hết giới nữ. Dường như những người thiếu nữ vừa tới tuổi trâm cài lược giắt đã lo âu cho số phận của mình. Và đó chính là những lo ngại cho hạnh phúc hẩm hiu của mình. Và tất cả cũng như đã tạo nên một dòng cảm xúc buồn thương không ngừng chảy từ người này sang người khác và cũng từ đời này sang đời khác vào không gian một tiếng vang vọng mãi. Thân phận của người phụ nữ thời phong kiến đã chịu nhiều đau khổ, chấp nhận làm đẹp cho những người xung quanh. Thật không sai khi chính số phận của họ như tấm lụa bay trong gió không biết sẽ về đâu. Câu ca dao trên thật đặc sắc là lời than thân yếu ớt. Và phải chăng chính người phụ nữ xưa cũng từng ao ước:


    Ví đây đổi phận làm trai được.


    Những câu ca dao như chất chứa biết bao cảm xúc, đó chính là tâm trạng, nỗi lòng của chính những người phụ nữ xưa. Người phụ nữ xưa họ phải chịu biết bao những hủ tục, những định kiến không được quyền bình đẳng luôn là những câu hát đến nghẹn lòng, và câu ca dao trên là một câu hát như vậy.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ




xoivotv | 90phut | mitom tv1 | xem lại bóng đá | banthang | Xoilac tv | xem lại bóng đá | thevang tv | bong da truc tiep | bongdatructuyen | xemlai |