Top 15 Bài văn phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử lớp 11 hay nhất
"Đây thôn Vĩ Dạ" không chỉ thể hiện được tâm trạng của nhà thơ mà còn vẽ lên một bức tranh quê tuyệt đẹp, ở trong bức tranh quê ấy ta thấy một tấm lòng yêu đời ... xem thêm...của nhà thơ. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ hay nhất mà Toplist đã tổng hợp trong bài viết dưới đây.
-
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tài hoa nhưng bạc mệnh. Nỗi đau về bệnh tật, nỗi đau về một kiếp sống ngắn ngủi đã khiến cho những vần thơ của ông thấm đẫm một nỗi buồn da diết. “Đây thôn Vĩ Dạ” cũng là một bài thơ được nhà thơ sáng tác vào những năm cuối đời của mình, với nỗi niềm tiếc nuối với mối tình với cô gái trong mộng chưa kịp chớm nở đã bị số phận trớ trêu cắt đứt. Bài thơ cũng là một bức tranh về thôn Vĩ Dạ thơ mộng bên bờ sông Hương, thật đẹp, những vẫn thấm đẫm một nỗi buồn da diết, bâng khuâng của Hàn Mặc Tử.
Sau câu hỏi đầu tiên: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”, câu hỏi vừa như một lời trách móc nhẹ nhàng, vừa như một lời mời về với thôn Vĩ Dạ, toàn bộ cảnh vật nơi đây hiện dần lên qua những dòng thơ của Hàn Mặc Tử.
“Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Khung cảnh thôn quê mộc mạc nhưng cũng vô cùng đẹp đẽ hiện lên trước mắt người đọc qua từng câu thơ. Từ cổng vào, đã thấy hàng cau thẳng tắp, xanh mướt. Từng tia nắng chiếu trên hàng cau ấy. Nắng mới lên là một màu nắng nhạt, không quá chói chang và cũng không gây ra cảm giác nóng nực của nắng trưa. Nắng mới lên trải đều lên hàng cau, biểu hiện cho một sức sống mãnh liệt, một vẻ đẹp trẻ trung, khỏe khoắn, sinh động. Vào đến sâu trong vườn, cũng lại chỉ thấy một màu xanh của cây cối, của lá trúc. Cả khu vườn xanh mướt, mượt mà đến lạ lùng. Từ “mướt” ở đây, để chỉ một màu xanh bóng, tựa như mọi nơi đều là màu xanh, xanh đến lạ lùng. Màu xanh ngọc ở đây ,cũng có thể là do nắng chiếu xuyên qua lá tạo thành màu xanh ngọc, cũng có thể là do nắng chiếu lên những giọt sương sớm còn đọng trên phiến lá tạo thành những viên ngọc long lanh, đẹp tuyệt vời. Trong không gian xanh mộc mạc, giản dị nhưng cũng tuyệt đẹp đó, con người xuất hiện khiến cho cảnh vật càng trở lên sinh động. Tác giả không nói rõ người ấy là ai, cũng chẳng rõ hình dáng khuôn mặt, chỉ biết người ấy ẩn ẩn hiện hiện sau màu xanh của lá trúc. Đó cũng có thể là một người đang chăm sóc vườn, cũng có thể là một người khách đến thăm.
Chỉ với vài nét phác họa, nhưng cảnh vật ở thôn Vĩ Dạ dần dần hiện ra trước mắt người đọc. Cũng có thể do thời gian đã lâu, nên những gì còn đọng lại trong tâm trí Hàn Mặc Tử chỉ là những gì nổi bật nhất, đặc trưng nhất mà thôi. Nhưng cũng chỉ cần có thể, một bức tranh nơi làng quê giản dị, mộc mạc nhưng cũng đầy thơ mộng đã được vẽ nên chỉ với vài nét bút. Không chỉ thế, ẩn sau từng câu chữ tả cảnh, cũng được gửi gắm trong đó nỗi lòng nhà thơ, một niềm hi vọng, một nỗi khát vọng sống mãnh liệt. Phóng mắt ra xa, chính là trời đất, gió mây, sông nước:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Tuy vẫn là cảnh thiên nhiên, nhưng nó đã bị vương một chút gì đó của sự tan rã, chia ly. Gió thổi mây bay, từ xưa đến nay gió với mây vốn vẫn luôn quấn quýt với nhau, chẳng mấy khi tách rời. Vậy mà ở đây, gió đi một đường, mây đi một nẻo, hai con đường ấy không trùng nhau. Gió với mây chia ly, dòng nước cũng trở nên buồn bã, hiu quạnh. Tất cả như dừng lại vì chán nản, chỉ còn những bông hoa bắp ở hai bên bờ khẽ khàng lay động, như vô tình không biết, hay có lẽ là đang quan tâm, an ủi dòng sông đang buồn trước cảnh chia ly. Giữa cảnh thực, Hàn Mặc Tử bỗng lại vẽ lên con thuyền và bến sông trăng. Thuyền sắp đi, liệu có chờ kịp trăng để chở trăng về tối nay. Cái mờ ảo thấm đẫm từng câu thơ, hư hư thực thực. Thuyền trăng, bến sông trăng, đó chỉ là những thứ mà tác giả tưởng tưởng ra, là ảo ảnh, là sự tiếc nuối, lỡ làng của một kiếp sống dở dang với đời, với tình. Ở khổ thơ thứ ba, thấp thoáng đâu đó là hình ảnh người con gái trong lòng “Hàn Mặc Tử:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá, nhìn không ra”
Từ “mơ” được đặt ở đầu câu, có thể hiểu đó là mơ ước, cũng có thể là giấc mơ. Người con gái ở nơi xa luôn ở trong tim, trong tâm và đi theo cả nhà thơ vào trong mơ. Đó là do sự nhớ mong da diết người ở phương xa, nên bất cứ lúc nào cũng có thể nhầm tưởng, cũng có thể mơ tới. Thế nhưng, nhớ nhung thì sao, bởi vẫn là sự chia ly. Em đã là “khách đường xa”, anh cũng chẳng thể nhìn thấy em được nữa. Vì đã là người khách đi xa, bóng hình em cũng chỉ còn là những hình ảnh nhạt nhòa, mờ ảo mà thôi. Màu áo dài trắng là một màu đặc trưng của những người con gái Huế, tác giả cũng muốn nhắc đến vẻ đẹp trong sáng, thánh thiện của người con gái ấy. Mãi mãi, người con gái ấy vẫn luôn đẹp trong tâm trí nhà thơ. Thế nhưng, với một cuộc sống ngắn ngủi, nhà thơ chỉ biết thốt lên lời than:
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Sương khói mờ nhân ảnh, hay cũng chính là cuộc đời lắm chông gai, lắm biến cố, lắm thứ làm người ta mờ mắt. Giữa nhân gian bụi bặm, liệu người còn ghi tạc mối tình năm ấy hay là đã quên rồi? Câu thơ cuối, không rõ là ai hỏi ai, có thể là nhà thơ hỏi người tình nơi xa, cũng có thể là nhà thơ tự vấn chính mình. Câu hỏi cũng như tiếng kêu thắt ruột, của một con người cuộc đời dở dang mà tình duyên cũng dang dở. Đoạn cuối khổ thơ đầy những hình ảnh hư hư thực thực, như toàn bộ những cảm xúc tuyệt vọng, đau khổ, nhớ nhung…đang vây lấy nhà thơ.
Về nhan đề, “Đây thôn Vĩ Dạ” chính là một bài thơ tả cảnh thôn Vĩ, và đúng vậy, một khung cảnh giản dị nhưng đầy thơ mộng đã hiện ra trước mắt người đọc. Thế nhưng, trong cảnh ấy, vẫn thấm một nỗi buồn chia ly, nỗi nhớ nhung sâu sắc của một người đang yêu. Bài thơ sẽ mãi là những vần thơ đẹp nhất trong cuộc đời sáng tác ngắn ngủi của Hàn Mặc Tử.
-
Hàn Mặc Tử làm thơ từ năm 16 tuổi, ông là một thiên tài mà tài năng được bộc lộ rất sớm. Hồn thơ ông vừa có những nét ma mị vừa có nét trong trẻo, tươi sáng, cho thấy một phong cách thơ đa dạng, phức tạp. Đây thôn Vĩ Dạ có thể coi là một trong những bài thơ hay nhất của ông, tác phẩm đã dựng lên khung cảnh thiên nhiên trong trẻo, hiền hòa, mà cũng đầy cô đơn của một tâm hồn khát khao yêu thương, khát khao sống mãnh liệt.
Đây thôn Vĩ Dạ được mở đầu bằng bức tranh thật thơ, thật mộng với những đường nét lung linh, tươi sáng. Câu hỏi mở bài: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” như một lời trách móc nhẹ nhàng mà cũng đầy tình cảm dành cho Hàn Mặc Tử. Rồi để sau đó mở ra khung cảnh thôn Vĩ mơ mộng, đậm chất xứ Huế:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Không gian thật thân thuộc, gần gũi đối với bất cứ người Việt Nam nào. Những hàng cau chạy thẳng tắp, cao vút đón đợi cái nắng tinh khôi đầu tiên của ngày mới. Hai chữ nắng lặp lại trong câu thơ đem đến cho người đọc sự ấm áp, trong lành với thứ ánh sáng dịu nhẹ lan tỏa khắp không gian. Năng mới là thứ nắng vừa lên, không gay gắt, chói chang mà dịu nhẹ, tinh tế như chính tính cách của con người xứ Huế mơ mộng. Nắng ấy cũng đem đến cho ta cảm giác tươi mới, trong lành. Dịch chuyển điểm nhìn xuống dưới, cả một khung vườn, cả một viên ngọc khổng lồ hiện ra trước mặt. Sắc xanh phủ kín khắp nơi, cái nắng mới chiếu rọi xuống những hạt sương li ti, bé nhỏ tạo thành một viên ngọc khổng lồ mang màu xanh ngọc bích. Tuyệt vời và đẹp đẽ biết bao. Nếu câu thơ đầu đem đến cho người đọc sự thanh khiết, tươi mới thì câu thơ này lại đem đến cho chúng ta sự non tơ, mỡ màng. Chỉ với một từ “mướt” thôi cũng đã làm bừng dậy cả sức sống của muôn vàn cỏ cây. Kết hợp với biện pháp so sánh Hàn Mặc Tử đã hoàn chỉnh bức tranh thôn dã tràn đầy sức sống. Nhưng để bức tranh đó trở nên hoàn thiện hơn, ông cũng không quên điểm vào đó chân dung mờ ảo, hư thực của nét mặt chữ điền. Thật khó để có thể xác định được mặt chữ điền ở đây là ai, có thể là người con gái, có thể là người con trai ở thôn Vĩ. Chính tính mơ hồ đó đã làm câu thơ trở nên đa nghĩa, giàu giá trị hơn. Đồng thời khuôn mặt chữ điền cũng tạo nên sự hài hòa giữa cảnh vật và thiên nhiên. Đó là sự hài hòa tự nhiên, đậm chất Huế. Bài thơ mở đầu bằng khung cảnh tuyệt đẹp, trong sáng, tinh khiết, nhưng thoắt đã xuất hiện một bức tranh khác, bức tranh đẹp màu buồn, cô đơn vào một đêm trăng trên sông:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Hai câu thơ đầu vẽ nên khung cảnh đượm buồn với sự xuất hiện của các sự vật: gió, mây, hoa bắp, sông. Khung cảnh rộng rãi, thoáng đãng nhưng lại ẩn chứa sự mơ hồ, xa xăm. Mọi sự vật đều chia lìa: Gió theo lối gió, mây theo lối mây, dường như giữa chúng không hề có một mối liên hệ nào với nhau. Nghệ thuật đối tài tình đã nhấn mạnh sự chia lìa, cũng như sự cách trở. Tưởng là gần nhau mà hóa ra lại là chia li muôn trùng. Dòng sông lặng lỡ trôi trong cái thinh lặng của buổi đêm, trong con mắt của thi nhân con sông trở nên “buồn thiu”, bâng khuâng, man mác buồn. Nhịp lay nhẹ, khẽ khàng của hoa bắp như càng làm nổi bật hơn sự hiu quạnh của cảnh vật, cũng như sự cô đơn trong chính lòng người. Ngoại cảnh chia lìa, tan tác càng xoáy sâu hơn vào tâm hồn của nhân vật trữ tình, ông tìm đến với trăng để bám víu. Trăng trong thơ Hàn Mặc tử là người bạn, người tri kỷ đối với ông:
Thu về nhuộm thắm nét hoàng hoa
Sương đẫm trăng lồng bóng thiết tha
Hay:
Anh ngâm nga để mở rộng cửa lòng
Cho trăng xuân tràn về say chới với
Trong bài thơ này, cả một sông trăng, thuyền trăng để cứu vớt nỗi cô đơn của ông: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay”. Không gian ngập đầy ánh trăng vừa huyền ảo vừa ma mị như gợi nhắc về một quá khứ xa xôi, quá khứ tươi đẹp trước đây của ông. Những lời thơ cất lên có gì đó như nghẹn lại, khắc khoải hơn, “thuyền ai” một câu hỏi vang ra mà không có hồi đáp, câu hỏi trở nên vô vọng. Và câu thơ sau chứa đựng đầy sự băn khoăn, liệu trăng có kịp trở về tối nay – một khoảng thời gian quá ngắn ngủi. Dường như ông đang chạy đua với thời gian để dành giật, để được sống. Hai câu thơ đã thể hiện khao khát gặp gỡ, niềm yêu cuộc sống cũng như nỗi niềm lo âu, khắc khoải về sự muộn màng, dở dang. Ở khổ thơ này thiên nhiên đã mờ dần, dường như không còn định hình được rõ ràng nữa, và sang đến khổ thơ cuối cùng ranh giới giữa các sự vật hiện tượng hoàn toàn không thể phân biệt được nữa: “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh/ Ai biết tình ai có đậm đà”. Mọi sắc thái đều được đẩy lên cực độ: trắng quá, mờ nhân ảnh. Khung cảnh dường như đi vào cõi mơ, cõi hư ảo chứ không còn là cõi thực nữa. Thế giới ở đây và thế giới ngoài kia nhòe mờ, khắc sâu nỗi cô đơn, tuyệt vọng được đẩy lên đến cực điểm của nhân vật trữ tình.
Bằng việc sử dụng linh hoạt các biện pháp nghệ thuật: so sánh, nhân hóa,.. ngôn từ tinh tế, hàm súc, Hàn Mặc Tử đã vẽ nên bức tranh xứ Huế vừa đẹp đẽ, lung linh vừa huyền ảo, ma mị. Đằng sau bức tranh thiên nhiên đó là tình yêu cuộc sống mãnh liệt, nhưng rơi vào tuyệt vọng, sự bi kịch.
-
Hàn Mạc Tử được biết đến là một nhà thơ có sức sáng tạo mãnh liệt với phong cách "điên", có đôi khi là vượt ra khỏi thế giới hiện thực, tràn ngập mộng mị. Tuy nhiên sáng tác của ông vẫn có những vần thơ về thiên nhiên mượt mà, đẹp tươi như rọi vào lòng người đọc xúc cảm mới. Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" là một bức tranh tuyệt đẹp về cảnh vật, thiên nhiên xứ Huế mộng mơ. Bức tranh ấy neo đậu trong lòng nhà thơ và neo lại trong lòng người đọc nhiều dư âm.
"Đây thôn Vĩ Dạ" là bài thơ được ghi sau một bức ảnh được gửi từ người con gái xứ Huế. Khi ấy Hàn Mạc Tử đang ở Quy Nhơn dưỡng bệnh. Nỗi nhớ mong, hoài niệm về con người và thiên nhiên xứ Huế, Hàn Mặc Tử đã viết bài thơ tuyệt đẹp này. Thiên nhiên trong bài thơ "Đây thôn Vỹ Dạ" dường như cũng mang nhiều gam màu, nhiều cung bậc lẫn lộn trong chính cảm xúc của nhà thơ. Mở đầu bài thơ là lời trách móc nhẹ nhàng, tình tứ người "khách xa" sao lâu nay không về Huế chơi:
Sao anh không về chơi thôn Vỹ
Tứ thơ thật đẹp, thật tinh tế và ẩn chứa nội dung sâu xa. Nỗi nhớ về Huế được tác giả gửi gắm qua lời trách yêu nhẹ nhàng này. Hàn Mạc Tử đã dẫn dụ người đọc khám phá một bức tranh xứ Huế nhiều nét đẹp riêng. Sau lời trách móc ấy, một bức tranh thiên nhiên tươi sáng, tràn đầy sức sống hiện ra:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Bức tranh thiên nhiên xứ Huế vào buổi sáng ban mai tinh khôi, trong lành. Ánh nắng đầu ngày luôn tinh khô, tràn đầy sức sống nhất. Dường như ánh nắng đang lên cao trên những hàng cau dài thẳng tắp. Từ "nắng" được lặp lại hai lần như nhấn mạnh bầu không khí trong lành nhất ở xứ Huế mộng và thơ. Một khu vườn hiện lên thật xinh xắn và tươi đẹp. "Vườn ai" phiếm chỉ một địa danh cụ thể nào đó nhưng tác giả ẩn ý không nói ra. Màu xanh "như ngọc" của khu vườn khiến cho bức tranh bừng lên sức sống. Không phải xanh non, xanh rì mà là "xanh mướt". Từ "mướt" làm mềm cả câu thơ và khiến cho khung cảnh trở nên hiền dịu và nên thơ hơn.
Đến câu thơ cuối dường như hình ảnh con người mới xuất hiện. Mặt chữ điền là khuôn mặt phú hậu, hiền lành của người con trai. Cây trúc biểu tượng cho chí trí nam chi. Có lẽ có "khách đường xa" nào đã ghé thăm xứ Huế, nhưng chỉ là ghé thăm một cách thầm lặng như vậy. Qua ngôn ngữ điêu luyện, giọng văn nhẹ nhàng, Hàn Mạc Tử đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên xứ Huế nên thơ nhất. Tuy nhiên sang đến khổ thơ thứ hai thì dường như bức tranh thiên nhiên ở đây đã bắt đầu chuyển màu:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Có một sự chia ly, tan vỡ ở trong hai câu thơ. Mây và gió vốn chung đường nhưng trong thơ Hàn Mạc Tử lại chia lìa đôi ngả. Hình ảnh hoa bắp ven bờ sông hương lay nhẹ rơi rụng xuống mặt nước khiến người đọc liên tưởng đến sự nổi trôi, bấp bênh của một đời người. Thiên nhiên ở đây vẫn đẹp, nhưng đẹp mang nỗi buồn mênh mang và sâu thẳm.
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Xứ Huế với một đêm nên thơ, tràn ngập ánh trăng nhưng dường như tác giả đang thấp thỏm, lo âu điều gì đó. Từ "kịp" khiến cho mạch thơ vỡ ra, vội vàng và gấp gáp hơn. Tác giả đang hỏi ai hay hỏi chính bản thân mình. Và đến khổ thơ cuối thì dường như thiên nhiên đã chuyển sang gam màu khác, mờ ảo, huyền diệu hơn:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ai biết tình ai có đậm đà
Một đêm trăng mờ ảo, sông nước mênh mông khiến tác giả có cảm giác như mọi thứ đang ở trong cõi hư không. Màu trắng bao trùm lấy khổ thơ cuối. Sự mộng mị của cảnh sông nước khiến cho tác giả thấy mình chới với, không có điểm tựa. Câu hỏi cuối cùng của bài thơ là một câu hỏi da diết và day dứt, nó như một điệp âm cứ thổn thức mãi trong lòng tác giả.
Bức tranh thiên nhiên của xứ Huế có sự chuyển biến qua ba khổ thơ theo hướng hư không, mờ ảo dần. Tuy nhiên người đọc vẫn nhận ra được sức sống tràn trề, nét đẹp tinh khôi của một bức tranh thiên nhiên ở Huế.
"Đây thôn Vỹ Dạ" là một bức tranh về xứ Huế vừa tươi đẹp, vừa mộng mơ, vừa huyền ảo khiến người đọc có cảm giác như đang lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh.
-
"Đây thôn Vĩ Dạ" ra đời ngẫu nhiên trong một lần Hàn Mặc Tử nhận được bức thư của nàng thơ Hoàng Thị Kim Cúc xưa gửi cho thi sĩ trong những ngày cuối cùng của đời người bên giường bệnh. Bức thư kèm theo một bức ảnh chụp cảnh non nước mây trời xứ Huế. Quá khứ về những ngày ở Huế ùa về, Hàn Mặc Tử chợt xúc động và viết lên bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ". Có lẽ, đó là lí do bức tranh thiên nhiên Vĩ Dạ trong bài thơ lại đầy sắc, hương và tình đến thế.
Trong số các nhà văn, nhà thơ Việt Nam, ít ai chịu nỗi đau đời nhiều như Hàn Mặc Tử. Cuộc đời Hàn bị ruồng bỏ nơi bãi bồi, chòi gác. Người chịu căn bệnh phong hành hạ thể xác tới cuối đời. Đưa nỗi đau vào các tác phẩm, Hàn Mặc Tử trở thành đỉnh cao thơ Mới với cái "tôi" hoàn toàn "loạn" và dị biệt. Tác phẩm "Đây thôn Vĩ Dạ" tiêu biểu cho cái tôi kì dị ấy. Thế nên mới có lời nhận xét thế này "Thơ Hàn Mặc Tử thường có bước cóc nhảy về ý, ý nọ cách ý kia một khoảng rất xa, thoạt nhìn tưởng đầu Ngô mình Sở...". Chỉ riêng cách thể hiện bức tranh thiên nhiên trong bài thơ, ta đã thấy những điểm đó.
Bức tranh thiên nhiên trong bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" được thể hiện tập trung chủ yếu trong hai khổ thơ đầu tiên. Hàn Mặc Tử đã khắc họa hai bức tranh với hai gam màu khác nhau, một tươi sáng đầy sức sống; một thấm đẫm lạc lõng, cô đơn, dự cảm bất an. Trước hết, bức tranh thiên nhiên Vĩ Dạ đầy sức sống gợi về từ quá khứ tươi đẹp thời tuổi trẻ đầy niềm yêu sống và hoài bão của Hàn Mặc Tử những ngày ở Huế. Thuở đó, khi anh thi sĩ lắm mộng mơ phải lòng cô gái Huế Hoàng Thị Kim Cúc, tâm hồn người đang yêu khi nào chẳng phơi phới. Vậy nên Vĩ Dạ sống trong lòng nhà thơ mới tràn trề nhựa sống như thế:
"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc"
Vĩ Dạ nhiều cau. Những hàng cau xanh bát ngát của buổi sớm mai cộng hưởng ánh nắng vàng rực và sắc non tơ mơn mởn của vườn cây trái Vĩ Dạ sao mà khó quên đến thế. Mỗi sớm, mặt trời rọi ánh dương xuống xuyên qua kẽ lá cau dài đổ thành giàn đan xuống mặt đất. Những thân cau cao, thẳng, nhiều đốt. Nắng rọi xuống thân cau in bóng một cây thước khổng lồ đang cần mẫn đo đạc mực nắng. Ánh nắng chiếu xuống nhưng lại có sắc "mới lên". Một câu thơ có tới hai từ nắng. Hàn Mặc Tử đã lấy màu nắng để gột rửa sắc xanh ánh lên màu ngọc bích. Có ai không yêu một Vĩ Dạ đầy sống động như thế. Sống động tới độ có gương mặt chữ điền nào đó cứ say đắm ngắm nghía quên mọi thời gian và không gian?
"Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay"
Bức tranh thiên nhiên bỗng "cóc nhảy" đến không gian trời mây sông nước với những tình cảm đứt gãy và chia lìa. Vừa mới vườn non tơ mơn mởn đây thôi mà giờ chỉ có nước "buồn", hoa bắp cô liêu, "thuyền ai" bất định... Vừa mới đây thôi còn đằm đằm ấm ấm ánh mắt ai đó say đắm cảnh sớm mai. Nay bỗng chốc thấy bóng người đang chới với một "bến sông" mỏi mòn chờ "thuyền ai" đem ánh trăng hạnh phúc về. Bức tranh có sông, nước, hoa, thuyền, bến, trăng tràn đầy ấy sao chỉ có tiếng thở than thiu nghỉu, dự cảm không "kịp".
Ngoài tiếng buồn thở than, ta thấy bức tranh như đang bị cắt rời, lìa bỏ nhau. Gió thổi mây bay. Thế mà gió "lối gió", mây lại "đường mây". Thuyền và bến luôn luôn đi liền với nhau. Thuyền cần bến đậu. Bến có thuyền mới là bến. Vậy mà thi sĩ không rõ thuyền ai, thuyền đâu. Một bức tranh chỉ thấy sự cô liêu và đứt gãy. Thế nhưng, có một điều chúng ta thừa hiểu rằng. Người càng lo sợ, càng bất an thì càng chứng tỏ tình yêu vô bờ bến với thiên nhiên Vĩ Dạ.
Tóm lại, Hàn Mặc Tử đã sử dụng nhiều nghệ thuật khác nhau để thể hiện bức tranh thiên nhiên Vĩ Dạ như sáng tạo ngôn từ, gieo vần, bắt âm, từ dùng giàu sắc thái, giọng thơ linh hoạt. Qua đó, nhà thơ nói lên tình yêu thiên nhiên, đất nước sâu nặng, thiết tha.
-
àn Mặc Tử là một hồn thơ mãnh liệt và có sức sáng tạo đặc biệt nhưng luôn quằn quại đau đớn vì một căn bệnh hiểm nghèo. Ông là tác giả tiêu biểu cho "trường phái thơ loạn" xa lạ với đời thực. Tuy nhiên, Hàn Mặc Tử cũng có những bài thơ thật tuyệt mĩ và trong trẻo lạ thường viết về thiên nhiên, đất nước và con người như Đây thôn Vĩ Dạ, Mùa xuân chín... Đây thôn Vĩ Dạ được in trong tập Thơ Điên của Hàn Mặc Tử. Bài thơ được ông viết khi nhận được bức ảnh chụp về phong cảnh Huế kèm theo mấy lời thăm hỏi của người bạn gái có tên là Hoàng Cúc. Những kỉ niệm về vùng đất và con người xứ Huế được sống lại trong bài thơ. Lúc này, ở Quy Nhơn ông đã biết mình mắc bệnh hiểm nghèo. Vì vậy bài thơ là một bức tranh đẹp về thiên nhiên xứ Huế nhưng cũng thấm đượm nỗi buồn da diết, bâng khuâng:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Câu hỏi Sao anh không về chơi thôn Vĩ có thể là câu tự vấn. Từ anh có thể là đại từ nhân xưng được dùng ở ngôi thứ nhất, mang tính chất giãi bày, thể hiện niềm nuối tiếc. Nhân vật trữ tình đã tự trách mình sao lại không về chơi thôn Vĩ. Giọng thơ đượm buồn có pha chút ân hận. Cảnh vườn cây đẹp trong nắng ban mai với cành lá mơn mởn ướt sương, ánh như ngọc được miêu tả trực tiếp, qua những hình ảnh cụ thể, sinh động:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Rồi con người xuất hiện:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Khiến cho thiên nhiên bỗng trở nên sinh động hẳn lên. Thiên nhiên như được thổi thêm một luồng sinh khí, tạo nên nét đẹp hài hòa trong giá trị tạo hình. Ở đây, câu thơ vừa miêu tả khuôn mặt chữ điền vuông vức đầy đặn ẩn chứa bên trong cảm giác hiền lành đã bị trúc trong vườn che khuất (cảnh thực) vừa như nói đến một trở lực ngăn cách tình người.
Sau vườn cây xứ Huế là thiên nhiên xứ Huế. Cảnh trời, mây, sông, nước ở đây thật đẹp, nhất là cảnh một dòng sông được tưới đẫm ánh trăng với con thuyền cũng đầy ắp ánh trăng. Nhưng tất cả đều thấm đượm nỗi buồn. Cách miêu tả thể hiện trạng thái ảo mộng của tâm hồn nhà thơ. Nếu như ở khổ thơ đầu, nỗi buồn chỉ lộ rõ ở một câu thì ở khổ thơ này, dường như nỗi buồn giăng trải ra ở khắp cả khổ thơ:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Câu thơ như xẻ ra làm hai diễn tả sự phân cách, li tán của thiên nhiên nhưng lại gợi ra sự chia ly của lòng người. Nó như lưỡi dao rạch vào nỗi đau của thân phận kẻ bị chia lìa.
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Nỗi buồn của thi nhân đã lan trải ra khắp không gian theo quy luật tâm lý người buồn cảnh có vui đâu bao giờ (Nguyễn Du).
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Ánh trăng huyền ảo tràn đầy vũ trụ nên không khí hư ảo. Tâm trạng mộng mơ của thi nhân dường như đã cảm nhận được tất cả: sông trăng, bến trăng, thuyền chở trăng. Khổ thơ cho thấy con người nhà thơ rất cô đơn, đang khao khát được ai đó chia sẻ, tâm sự. Có chở trăng về kịp tối nay là một câu hỏi vừa như khắc khoải, bồn chồn, vừa như hy vọng chờ đợi một cái gì đang rời xa, biết có khi nào quay trở lại.
Tiếp tục nối mạch thơ trên, khổ thơ thứ ba thể hiện một nỗi niềm canh cánh của thi nhân trong không gian bao la của trời, mây, sông, nước đã thấm đẫm ánh trăng. Đó là sự hy vọng, chờ đợi, mong mỏi và một niềm khắc khoải khôn nguôi. Vẫn ở trong mộng ảo, vì vậy cảnh và người ở đây đều hư hư, thực thực. Đối với thi nhân thì tất cả chỉ là sự cảm nhận. Nhà thơ mơ thấy một khách đường xa, cảm nhận rõ một bóng hình người con gái Huế thơ mộng song không thể nắm bắt được, thoắt ẩn, thoắt hiện, áo em trắng quá nhìn không ra. Sự hụt hẫng đến cao độ, nhà thơ muốn bấu víu, cầm nắm mà không được vì cảnh đầy màu hư ảo lẫn khói mây:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Bóng hình của giai nhân mờ ảo trong sương, nhưng cũng có thể đó là ẩn ý của người viết. Phải chăng đây là biểu tượng của cái "không đi đến đâu" trong tình yêu của Hàn Mặc Tử:
Ai biết tình ai có đậm đà?
Một câu hỏi không rõ ngôi thứ, không cần sự trả lời nhưng người đọc cũng hiểu được ý nghĩa của nó, vì những khổ thơ đầu của bài thơ đã xuất hiện những cụm đại từ vườn ai, thuyền ai và những câu hỏi như thế:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Có chở trăng về kịp tối nay?
Tâm trạng mong mỏi, khát khao bao nhiêu thì sự day dứt, buồn đau cũng tăng lên bấy nhiêu. Tóm lại, cảnh trong Đây thôn Vĩ Dạ là cảnh của vườn quê sông nước xứ Huế. Cảnh đẹp, giàu sức sống, thơ mộng nhưng đượm một nỗi buồn bâng khuâng, da diết. Cảnh ấy như là sự thể hiện biện chứng tâm hồn của một nghệ sỹ tài hoa nhưng đa tình, đa cảm. Mỗi khổ thơ là một câu hỏi, như một nỗi buồn day dứt lòng người. Vì vậy âm hưởng chung của bài thơ là buồn nhưng không bi lụy.
Bài thơ thể hiện một tâm trạng rất thật của nhà thơ và một tình yêu xứ Huế thiết tha. Những chi tiết hình ảnh, thủ pháp nghệ thuật, cấu tứ của bài thơ đều được Hàn Mặc Tử chuyên chở bằng chính tình cảm của mình.
-
Hàn Mặc Tử là thi sĩ với phong cách sáng tác riêng và "lạ" trong phong trào Thơ mới. Thơ ông luôn bộc lộ nỗi niềm da diết với đời, với người nhưng nhận lại là sự thờ ơ và lãnh đạm. Đọc thơ Hàn Mạc Tử, chúng ta nhận ra cái tôi hơi hướng "điên" với những vần thơ "suýt" vượt ra khỏi "mảnh đất hiện thực". Nhưng đối lập với những hình ảnh "điên" đó là những hình ảnh thơ rất đẹp và thi vị. Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" là một ví dụ tiêu biểu. Bức tranh thiên nhiên xứ Huế hiện lên nên thơ và tươi đẹp qua những nét vẽ tài hoa của tác giả.
"Đây thôn Vĩ Dạ" thực ra là lời đáp của nhà thơ dành cho một cô gái ở thôn Vĩ Dạ khi cô gái ấy trách sao lâu rồi không ghé về chơi. Tứ thơ được viết ra từ mạch cảm xúc chân thành và mãnh liệt đó. Huế luôn là mảnh đất gợi nhớ, gợi thương đối với những ai đã từng đặt chân qua đây. Bởi nó có một nét đẹp vừa tươi mới, vừa cổ kính, vừa gần gũi. Thiên nhiên trong bài thơ chính là chất liệu để làm tôn thêm hình ảnh con người nơi xứ Huế. Câu thơ đầu có thể nói là câu thơ phác họa một cách rõ nét nhất bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và đầy lôi cuốn của mảnh đất kinh đô này:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Khổ thơ được cất lên bằng tiếng trách hờ của cô gái đối với nhân vật trữ tình. Một câu trách nhẹ nhàng, nhưng tình cảm và đầy sự tinh tế. Dù có trách thì người khác cũng không nỡ lòng nào để giận để hờn. Và đằng sau câu trách ấy là một bức tranh thiên nhiên thơ mộng được vẽ ra. Có thể nói tác giả đã không còn đơn thuần dùng chất liệu ngôn ngữ để vẽ tranh nữa mà đã dùng cả sự rung động trong trái tim để vẽ nên bức tranh tuyệt đẹp đó.
Thiên nhiên cứ thế sáng rực lên, tươi tắn và khỏe khoắn. Cách dùng từ "nắng mới lên" gợi cho người đọc liên tưởng đến nắng đầu ngày, nắng bình minh khoan thai, dễ chịu và nhẹ nhàng. Nắng mới lên đậu trên hàng cau xanh vút khiến người đọc mường tượng đến một khung cảnh thanh mát và trong lành.
Ở câu thơ thứ ba, tác giả dùng đại từ phiếm chỉ "vườn ai" như để hỏi người nhưng cũng là tự hỏi mình. "Vườn ai" vừa bộc lộ sự kín đáo, e dè, vừa thể hiện sự tinh tế và sâu sắc của nhà thơ. "Vườn ai" thì chính trong trái tim của nhân vật trữ tình đã hiểu quá rõ, quá sâu sắc rồi. Màu xanh của khu vườn là một màu xanh rất đặc biệt và lạ kì. "Xanh như ngọc" chính là màu xanh vừa trong lành vừa tinh khôi. Từ "mướt" như làm sáng bừng lên cả câu thơ, tạo sự mềm mại và uyển chuyển cho khu vườn buổi sáng mai. Một bức tranh thiên nhiên giàu chất thơ và tươi đẹp biết bao nhiêu. Sang đến câu thơ thứ hai thì thiên nhiên từ tươi tắn chuyển sang buồn bã và vương sự chia li.
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Gió mây xưa nay vốn đi chung đường nhưng trong thơ của Hàn Mặc Tử lại là chia đôi thành hai đường xa lạ. Từ "buồn thiu" như diễn tả được tâm trạng của thiên nhiên, một sự não nề và thê lương. Đoạn cuối có thể xem là đoạn thiên nhiên thôn Vi trở nên huyền ảo và mơ hồ hơn. Có thể nói đó chính là sự cảm nhận tinh tế và sâu sắc của Hàn Mặc Tử.
Với những nét vẽ đơn giản, nhẹ nhàng nhưng tinh tế và sâu sắc, Hàn Mạc Tử đã vẽ lên trước mắt người xem một bức tranh thiên nhiên xứ huế vừa tươi mới, vừa thơ mộng, vừa u sầu. Có lẽ đó chính là nét đặc trưng của Huế.
-
Hoài Thanh - Hoài Chân đã nhận xét về hồn thơ Hàn Mặc Tử là một "vườn thơ rộng rinh không bờ bến", mang theo cảm giác "càng đi xa càng ớn lạnh", ớn lạnh bởi thơ chính là tiếng khóc của người thơ, và chỉ "thét lên bằng thơ". Tiếng khóc ấy đã được nhà thơ gửi gắm vào trong tác phẩm “Đây thôn Vĩ Dạ”, dẫu rằng cảnh thiên nhiên trong bài thơ thật đẹp, nhưng lại được nỗi buồn da diết, bâng khuâng.
Cảm hứng để nhà thơ cất bút viết nên bài thơ này, đó là nhờ tấm bưu thiếp và những lời thăm hỏi của bà Hoàng Thị Kim Cúc. Có thể xem đây là duyên cớ để nhà thơ bày tỏ tình yêu tha thiết với thiên nhiên, cuộc sống và con người, từ đó giúp ta cảm nhận được tâm trạng của nhà thơ trong hoàn cảnh éo le, bất hạnh. Bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” hiện ra qua bức tranh thôn Vĩ lúc ban mai. Bài thơ đã mở ra bức tranh ấy bằng một câu hỏi đầy gợi mở, dẫn dắt người đọc:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Câu hỏi vang lên vừa như lời trách móc, lời mời gọi tha thiết của người con gái thôn Vĩ, nhưng cũng lại như lời tự vấn bản thân vì sao lại chưa về thăm thôn Vĩ. Phải chăng, đây là ao ước thầm kín, là niềm khát khao được trở về của nhà thơ, để thăm lại cảnh cũ, người xưa? Bài thơ tiếp tục mở ra cho chúng ta một khung cảnh thiên nhiên đẹp tinh khôi, ngỡ ngàng:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Điệp từ “nắng” và hình ảnh “nắng mới lên” đã gợi lên sắc nắng ấm áp, trong trẻo, tinh khôi. “Mướt quá” là tính từ đầy gợi cảm, mượt mà óng ánh đầy xuân sắc. Sự kết hợp với đại từ phiếm chỉ “ai” khiến cho câu thơ như một lời tự thán, ca ngợi cái đẹp tột cùng. Nhà thơ đã so sánh màu xanh với ngọc, diễn tả được sự xanh trong, vừa có màu vừa có ánh. Vườn thôn Vĩ lúc này như một viên ngọc rời rợi sắc xanh, tỏa ánh sáng vào ban mai. Lúc này, một bóng hình đẹp bỗng xuất hiện:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”:
“Mặt chữ điền” là mặt của một chàng trai? Hay đó là gương mặt của một cô gái? Dẫu sao, ta vẫn có thể cảm nhận được đó là biểu tượng của nét đẹp phúc hậu, hiền lành. Nét đẹp ấy được “lá trúc che ngang”, lá trúc mảnh mai, gợi nét đẹp kín đáo, dịu dàng của con người xứ Huế. Câu thơ giàu chất tạo hình, đó là sự hài hòa giữa khung cảnh thiên nhiên xứ Huế (hàng cau, lá trúc...) và bóng hình của con người (mặt chữ điền) trong vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng. Ta có thể cảm nhận được cảnh vườn thôn Vĩ tươi sáng trong nắng mai, với cảnh sắc bình dị mà tinh khôi, đơn sơ mà thanh tú, nghiêng về cõi thực. Bức tranh thiên nhiên dẫu đẹp, nhưng không thể phủ nhận rằng ẩn sau đó là một tâm trạng nuối tiếc, một nỗi niềm tha thiết được giao cảm với cái đẹp, với thiên nhiên và con người thôn Vĩ. Không chỉ dừng lại ở đó, bức tranh thôn Vĩ lại một lần nữa hiện lên, nhưng lúc này, nó không còn là một khu vườn ban mai nữa, mà lại là bức tranh sông nước trong đêm trăng:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
Điểm nhìn thay đổi từ ban mai sang đêm tối, từ cảnh vườn thôn đến sông trăng, từ khung cảnh hiện thực sang không khí hư hư thực thực đầy huyền ảo. Ta cảm nhận được sự chia lìa li tán được gợi lên qua cả hình ảnh và nhịp điệu. Hình ảnh “Gió theo lối gió, mây đường mây” vận động trái với tự nhiên. Nhìn theo lô gích hiện thực thì mây và gió không thể tách rời. Đây là sự tách rời phi lí và ngang trái. Có thể thấy, sự vật được nhìn nhận không phải bằng cái nhìn thị giác mà bằng mặc cảm chia lìa. Đồng thời nhà thơ còn nhân hóa “Dòng nước buồn thiu” để nhấn mạnh nỗi buồn. “Hoa bắp lay” thể hiện sự phiêu tán, sự ra đi, lưu luyến vô vọng. Từ những hình ảnh ấy, ta nhận ra chủ thể trữ tình cảm thức về thân phận bị bỏ rơi. Nhưng sự chia lìa còn được thể hiện ở nhịp điệu khác thường. Một câu thơ thất ngôn bình thường sẽ có nhịp 2/2/3, nhưng câu thơ này lại sử dụng nhịp 4/3. Phải chăng mỗi đối tượng bị cách li trong một khuôn nhịp riêng biệt, làm nổi bật sự lìa xa nhau. Hình ảnh và nhịp điệu quyện vào nhau khiến cho cuộc chia lìa gió mây càng sắc nét, gây nên cảm xúc đau buồn.
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Từ “kịp” như đang phân cách đôi bờ, như một sự hoảng sợ về những phút giây cuối cùng còn tồn tại trong cuộc đời. Mặc cảm chia lìa thấm đẫm vào vạn vật, đó là tiếng khóc cho thân phận bị bỏ rơi bên trời quên lãng của mình. Nhưng đồng thời, bởi sự chia lìa ấy, mà khát khao níu giữ hiện lên rõ rệt. Bởi chỉ một mình trăng là đi ngược lại xu thế chảy đi của những “mây”, “gió”... Từ “kịp” thì lại thể hiện sự phấp phỏng, lo âu, khát khao được gắn bó, được níu giữ. Đó là niềm thiết tha gắn bó, tha thiết đến đau thương, mãnh liệt mà vô vọng. Bức tranh thiên nhiên sông nước hiện ra dưới đêm trăng thật huyền ảo, những hình ảnh trong đêm giúp ta cảm nhận được tâm trạng hoài nghi, mong ngóng, đồng thời cũng thể hiện khát vọng được giao cảm với cuộc đời trần thế của nhà thơ. Sang đến khổ thơ thứ ba, bức tranh ngoại cảnh bây giờ trở nên hư ảo, từ “mơ” mở ra như báo hiệu một trạng thái vô thức, nhà thơ đang chìm trong cõi mộng.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Từ “mơ” mở ra như báo hiệu một trạng thái vô thức, nhà thơ đang chìm trong cõi mộng. Điệp từ “khách đường xa” nhấn mạnh nỗi xót xa của nhà thơ, một hình bóng đẹp nhưng xa vời đến nỗi không thể nào gặp được
“Áo em trắng quá nhìn không ra”
Vì sao lại là “trắng quá nhìn không ra”? Tác giả đã cực tả sắc trắng, trắng một cách kì lạ và bất ngờ. Biện pháp hoán dụ khiến cho màu sắc không còn là màu sắc thực nữa mà là màu của tâm tưởng.
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”
“Ở đây”: hiện thực, là trại phong, nơi tác giả bị cách li với thế giới bên ngoài. Lớp từ: “sương khói”, “mờ” đã nhấn mạnh sự nhạt nhòa, hư ảo, hư thực vì đó là giấc mộng của tác giả, mong được liên kết với cuộc đời nhưng không thể. Tất cả khiến cho ta cảm nhận được bi kịch hiện thực, dường như nhà thơ đang bị lưu đày, cách xa thế giới ngoài kia.
“Ai biết tình ai có đậm đà?”
Đại từ phiếm chỉ “ai” lặp lại hai lần cho thấy tiếng gọi tha thiết đầy khát vọng nhưng “khách đường xa” cứ chập chờn rồi khuất bóng. Đồng thời, câu hỏi tu từ khiến ta cảm nhận được tâm trạng đau khổ vì cô đơn, hoài nghi. Thông qua khổ thơ này, ta nhận ra được sự hoài nghi của tác giả, về nỗi khát khao được sống và được yêu thương, cũng như có thể tận hưởng hết thảy cái đẹp trên đời.
Bức tranh thiên nhiên trong Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh toàn bích, nó ẩn chứa trong đó tất cả tình yêu, niềm say mê cuộc sống của Hàn Mặc Tử. Dẫu bao nhiêu năm trôi qua, chắc chắn bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ vẫn mãi sống trong lòng những người yêu thơ, yêu cái đẹp.
-
Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" - Hàn Mặc Tử đã miêu tả một cách sinh động, đầy màu sắc về cảnh vật của thôn Vĩ. Qua bài thơ, ta không chỉ yêu thêm về con người mà con yêu hơn nữa nét trữ tình, đằm thắm rất riêng của Huế.
Huế với vẻ đẹp nên thơ trữ tình, nó không chỉ đẹp mà còn gợi cho du khách sự nhớ nhung về một mảnh đất vừa tươi mới, vừa gần gũi, cổ kính. Vẻ đẹp đó đã tạo nên cảm hứng cho tác giả. Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ, gợi cho người đọc bao suy nghĩ: "Sao anh không về thăm thôn Vĩ". Câu thơ như lời trách móc nhẹ nhàng của một cô gái Huế đối với người cô thương. Nỗi niềm sâu kín như thể hiện một cách kín đáo qua câu thơ, "sao lâu rồi anh không về thăm thôn Vĩ". Đó còn là lời mời đầy ẩn ý, lời nhắn nhủ về với miền đất xinh đẹp, đáng yêu
Sao anh không về thăm thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Bức tranh làng quê hiện lên đầy màu sắc, khung cảnh làng quê bình dị nhưng vô cùng đẹp đẽ. Màu nắng mới "nắng mới lên" tinh khôi, không phải là ánh nắng chói chang của những ngày hè, cũng không là cái nắng yếu ớt sau những ngày đông u ám, mà là "nắng mới" nhẹ nhàng, ấm áp, cho người ta có cảm giác khoan thai dễ chịu. Nắng mới chiếu lên hàng cau thẳng tắp, như đang đón lấy, tỏa ra thứ sức sống căng tràn đang trỗi dậy, vươn vai trong nắng sớm. Cả bức tranh với màu sắc chủ đạo là màu xanh, không chỉ có màu xanh của hàng cau mà đó còn là màu xanh của cả khu vườn, một màu "xanh mướt". Từ "mướt" làm cho người đọc liên tưởng đến một màu xanh óng, khắp nơi đều là màu xanh, ánh nắng chiếu rọi lên toàn khu vườn làm cho cây cối ánh lên như màu ngọc bích.
Cũng có thể, nắng sớm soi xuống những hạt sương sớm còn đọng trên phiến lá tạo nên thứ ánh sáng long lanh làm cho nhà thơ liên tưởng đến những hạt ngọc. Trong khung cảnh thiên nhiên trữ tình đó, hình ảnh con người xuất hiện mờ ảo trong nắng mới. Tác giả không nói rõ là ai,người đọc chỉ có thể hình dung ra bóng dáng ẩn hiện sau màu xanh của lá trúc: "Lá trúc che ngang mặt chữ điền". Đó có thể là hình ảnh của người đi thăm vườn lúc sáng sớm, đó cũng có thể là hình ảnh của chính người mà tác giả thầm thương trộm nhớ, hoặc giả như đó chỉ là hình ảnh tưởng tượng trong sự nhớ nhung về một ai đó của chính nhà thơ. Bức tranh thôn Vĩ hiện lên trong sự nuối tiếc, nhớ nhung của tác giả, dù với chỉ vài nét vẽ nhưng chúng ta có thể nhận thấy nét đẹp tinh khôi, nên thơ của nơi đây. Không chỉ có thế, ẩn hiện sau từng câu chữ tả cảnh, chính là nỗi lòng của chính nhà thơ, niềm hy vọng, sức sống của tuổi trẻ, khát vọng sống mãnh liệt. Xa, xa, theo dòng sông Hương thơ mộng, chính là gió, mây, sông, nước:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Mặt nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Khung cảnh thiên nhiên đậm tình của tác giả, gió mây không đi chung một hướng, gió đi một đường, mây đi một nẻo. Cảnh vật dường như có sự chia tách, mặt nước sông Hương hẳn có phải vì thế mà cũng trở nên buồn bã hay không "Mặt nước buồn thiu hoa bắp lay". Hoa bắp hai bên bờ sông thoáng lay động, cả không gian tĩnh lặng ấy chỉ cảm thấy có sự chuyển động khẽ khàng của hoa bắp hẳn có phải đang an ủi sông Hương trong sự chia ly của mây và gió.
Rời xa khung cảnh thiên nhiên trầm lặng ấy, tâm trí trong tác giả hướng về thứ ánh sáng trong trẻo, nhẹ nhàng của ánh trăng "Thuyền ai đậu bến sông trăng đó". "Thuyền ai" tác giả một lần nữa không nói rõ là ai, chỉ thấy hình ảnh con thuyền đang đậu trên bến sông. Cả dòng sông bỗng trốc hóa thành dòng sông trăng, ngay cả bến đậu cũng trở thành "bến sông trăng". Con thuyền như chở cả ánh trăng, chở cả một dòng ký ức của chính nhà thơ. Ánh trăng đó có về kịp về để chứng kiến cho tâm chân tình của nhà thơ hay không, hay đó chỉ là sự nhớ nhung đầy tiếc nuối, trong ký ức của nhà thơ bỗng hiện về hình ảnh về người con gái mà tác giả thương
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Từ "mơ" được đặt ở đầu câu, đó có thể là giấc mơ, cũng có thể chỉ là mơ ước. Người con gái ấy đi cả vào trong giấc mơ của nhà thơ. Hình ảnh ấy bỗng nhạt nhòa trong màu trắng tinh khôi của áo dài. Bởi người con gái đó giờ đã đi xa chỉ có thể là "khách đường xa", nhà thơ không còn nhớ nổi hình ảnh người con gái đó nữa, dù trong mơ vẫn luôn chờ đợi hình bóng ai đó nhưng tất cả chỉ còn lại một màu trắng thấp thoáng xa xa giữa cái hư vô trong màu ký niệm "mờ nhân ảnh". Thế cho nên, tình cảm kia liệu cũng có khi nào cũng chỉ là hư vô như màu áo trắng thấp thoáng, lúc ẩn lúc hiện như màu áo trắng kia "Ai biết tình ai có đậm đà?". Câu hỏi tu từ không có câu trả lời, là tiếng lòng của chính nhà thơ, liệu ai có biết, liệu ai có còn nhớ hay chăng?
Bài thơ được khắc họa như một bức tranh thủy mặc, với đầy đủ tính chất với cây cối, trăng, sông, nước. Bức tranh thôn quê hiện lên giản dị nhưng đầy thơ mộng, nhưng ẩn hiện sau bức tranh ấy chính là nỗi sầu chia ly, nỗ nhớ nhung sâu sắc của người đang yêu.
-
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tài hoa nhưng bạc mệnh. Nỗi đau về bệnh tật, nỗi đau về một kiếp sống ngắn ngủi đã khiến cho những vần thơ của ông thấm đẫm một nỗi buồn da diết. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ được nhà thơ sáng tác vào những năm cuối đời của mình, với nỗi niềm tiếc nuối mối tình với cô gái trong mộng chưa kịp chớm nở đã bị số phận trớ trêu cắt đứt. Bài thơ cũng là một bức tranh về thôn Vĩ Dạ thơ mộng bên bờ sông Hương, thật đẹp, những vẫn thấm đẫm một nỗi buồn da diết, bâng khuâng của Hàn Mặc Tử.
Sau câu hỏi đầu tiên: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”, câu hỏi vừa như một lời trách móc nhẹ nhàng, vừa như một lời mời về với thôn Vĩ Dạ, toàn bộ cảnh vật nơi đây hiện dần lên qua những dòng thơ của Hàn Mặc Tử.
“Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Khung cảnh thôn quê mộc mạc nhưng cũng vô cùng đẹp đẽ hiện lên trước mắt người đọc qua từng câu thơ. Từ cổng vào, đã thấy hàng cau thẳng tắp, xanh mướt. Từng tia nắng chiếu trên hàng cau ấy. Nắng mới lên là một màu nắng nhạt, không quá chói chang và cũng không gây ra cảm giác nóng nực của nắng trưa. Nắng mới lên trải đều lên hàng cau, biểu hiện cho một sức sống mãnh liệt, một vẻ đẹp trẻ trung, khỏe khoắn, sinh động. Vào đến sâu trong vườn, cũng lại chỉ thấy một màu xanh của cây cối, của lá trúc. Cả khu vườn xanh mướt, mượt mà đến lạ lùng. Từ “mướt” ở đây, để chỉ một màu xanh bóng, tựa như mọi nơi đều là màu xanh, xanh đến lạ lùng. Màu xanh ngọc ở đây, cũng có thể là do nắng chiếu xuyên qua lá tạo thành màu xanh ngọc, cũng có thể là do nắng chiếu lên những giọt sương sớm còn đọng trên phiến lá tạo thành những viên ngọc long lanh, đẹp tuyệt vời. Trong không gian xanh mộc mạc, giản dị nhưng cũng tuyệt đẹp đó, con người xuất hiện khiến cho cảnh vật càng trở lên sinh động. Tác giả không nói rõ người ấy là ai, cũng chẳng rõ hình dáng khuôn mặt, chỉ biết người ấy ẩn ẩn hiện hiện sau màu xanh của lá trúc. Đó cũng có thể là một người đang chăm sóc vườn, cũng có thể là một người khách đến thăm.
Chỉ với vài nét phác họa, nhưng cảnh vật ở thôn Vĩ Dạ dần dần hiện ra trước mắt người đọc. Cũng có thể do thời gian đã lâu, nên những gì còn đọng lại trong tâm trí Hàn Mặc Tử chỉ là những gì nổi bật nhất, đặc trưng nhất mà thôi. Nhưng cũng chỉ cần có thế, một bức tranh nơi làng quê giản dị, mộc mạc nhưng cũng đầy thơ mộng đã được vẽ nên chỉ với vài nét bút. Không chỉ thế, ẩn sau từng câu chữ tả cảnh, cũng được gửi gắm trong đó nỗi lòng nhà thơ, một niềm hi vọng, một nỗi khát vọng sống mãnh liệt. Phóng mắt ra xa, chính là trời đất, gió mây, sông nước:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Tuy vẫn là cảnh thiên nhiên, nhưng nó đã bị vương một chút gì đó của sự tan rã, chia ly. Gió thổi mây bay, từ xưa đến nay gió với mây vốn vẫn luôn quấn quýt với nhau, chẳng mấy khi tách rời. Vậy mà ở đây, gió đi một đường, mây đi một nẻo, hai con đường ấy không trùng nhau. Gió với mây chia ly, dòng nước cũng trở nên buồn bã, hiu quạnh. Tất cả như dừng lại vì chán nản, chỉ còn những bông hoa bắp ở hai bên bờ khẽ khàng lay động, như vô tình không biết, hay có lẽ là đang quan tâm, an ủi dòng sông đang buồn trước cảnh chia ly. Giữa cảnh thực, Hàn Mặc Tử bỗng lại vẽ lên con thuyền và bến sông trăng. Thuyền sắp đi, liệu có chờ kịp trăng để chở trăng về tối nay. Cái mờ ảo thấm đẫm từng câu thơ, hư hư thực thực. Thuyền trăng, bến sông trăng, đó chỉ là những thứ mà tác giả tưởng tượng ra, là ảo ảnh, là sự tiếc nuối, lỡ làng của một kiếp sống dở dang với đời, với tình. Ở khổ thơ thứ ba, thấp thoáng đâu đó là hình ảnh người con gái trong lòng “Hàn Mặc Tử:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo xem trắng quá, nhìn không ra”
Từ “mơ” được đặt ở đầu câu, có thể hiểu đó là mơ ước, cũng có thể là giấc mơ. Người con gái ở nơi xa luôn ở trong tim, trong tâm và đi theo cả nhà thơ vào trong mơ. Đó là do sự nhớ mong da diết người ở phương xa, nên bất cứ lúc nào cũng có thể nhầm tưởng, cũng có thể mơ tới. Thế nhưng, nhớ nhung thì sao, bởi vẫn là sự chia ly. Em đã là “khách đường xa”, anh cũng chẳng thể nhìn thấy em được nữa. Vì đã là người khách đi xa, bóng hình em cũng chỉ còn là những hình ảnh nhạt nhòa, mờ ảo mà thôi. Màu áo dài trắng là một màu đặc trưng của những người con gái Huế, tác giả cũng muốn nhắc đến vẻ đẹp trong sáng, thánh thiện của người con gái ấy. Mãi mãi, người con gái ấy vẫn luôn đẹp trong tâm trí nhà thơ. Thế nhưng, với một cuộc sống ngắn ngủi, nhà thơ chỉ biết thốt lên lời than:
“Ở đây sương khói mở nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Sương khói mờ nhân ảnh, hay cũng chính là cuộc đời lắm chông gai, lắm biến cố, lắm thứ làm người ta mờ mắt. Giữa nhân gian bụi bặm, liệu người còn ghi tạc mối tình năm ấy hay là đã quên rồi? Câu thơ cuối, không rõ là ai hỏi ai, có thể là nhà thơ hỏi người tình nơi xa, cũng có thể là nhà thơ tự vấn chính mình. Câu hỏi cũng như tiếng kêu thắt ruột của một con người cuộc đời dở dang mà tình duyên cũng dang dở. Đoạn cuối khổ thơ đầy những hình ảnh hư hư thực thực, như toàn bộ những cảm xúc tuyệt vọng, đau khổ, nhớ nhung…đang vây lấy nhà thơ.
Về nhan đề, “Đây thôn Vĩ Dạ” chính là một bài thơ tả cảnh thôn Vĩ, và đúng vậy, một khung cảnh giản dị nhưng đầy thơ mộng đã hiện ra trước mắt người đọc. Thế nhưng, trong cảnh ấy, vẫn thấm một nỗi buồn chia ly, nỗi nhớ nhung sâu sắc của một người đang yêu. Bài thơ sẽ mãi là những vần thơ đẹp nhất trong cuộc đời sáng tác ngắn ngủi của Hàn Mặc Tử.
-
Trong phong trào Thơ mới (1930-1945) khi tìm hiểu về văn học tôi thấy mình như bắt gặp những chú chim họa mi giữa đêm đông than hót ca nỗi cô đơn của mình bằng những tiếng rất riêng trong đó ám ảnh nhất có lẽ là Hàn Mặc Tử. Bức tranh thiên nhiên mà Hàn Mặc Tử xây dựng trong bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ không chỉ đẹp tinh khôi mà còn đầy dự cảm, chia ly.
Trước hết, bức tranh thiên nhiên Vĩ Dạ đẹp tinh khôi, kì vĩ, thơ mộng được khắc họa chủ yếu qua màu nắng và màu lá:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”
“Nắng” như một kỉ niệm về ánh sáng của Vĩ Dạ trong kí ức nhà thơ. Nắng là hình ảnh quen thuộc trong thơ ca. Nắng mới và nắng hàng cau cũng được một số tác giả thể hiện. Trong “Nắng mới” của Lưu Trọng Lư có:
“Mỗi lần nắng mới hắt bên song”
hay trong thơ Nguyên Hồng bài “Nhớ” cũng thể hiện một sắc nắng:
“Có nắng chiều đột kích hàng cau”
Thế nhưng, “nắng mới lên” phải chiếu vào tạo ra “nắng hàng cau” mới là nắng của Hàn Mặc Tử. Những tia nắng đầu tiên của buổi sớm chiếu rọi trên hàng cau và hàng cau tắm trong sắc nắng ban mai. Ánh sáng của Hàn Mặc Tử miêu tả thuộc về ký ức thật sống động, lung linh, trong trẻo, tinh khiết, rực rỡ. Hai chữ nắng trong một câu thơ tạo nên một tiết tấu khác thường. Có một cái gì như là náo nức, e ấp của con trẻ lần đầu mặc chiếc áo mới thật rạo rực, thơ ngây. Thiên nhiên Vĩ Dạ còn mở thêm một màu xanh mát mắt:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
“Vườn ai” là một khu vườn mà chủ sở hữu đã được xác định rõ ràng là “ai”. Sắc nắng, vị nắng trộn hoàn cảnh vật vừa như vút lên cái tầm thanh thoát của hàng cau xứ Huế lại vừa như ùa xuống, tràn lên tất cả vườn ai. Câu thơ như một sự buột miệng không kìm nổi lòng mình của con người gieo nên khi bắt gặp một sắc màu xanh biếc. Cảnh vật đêm qua tắm một trận mưa rào, cây cối rửa sạch vô cùng, giọt nước rất nhỏ đọng lại chờ tới sáng sớm sẽ có những tia nắng xuyên qua mà ánh lên sắc ngọc. Sáng xanh được cụ thể trong hai từ “mướt quá”. Tàu lá như được láng nước lên và mềm mại, mỡ màng, tràn trề sức sống khi phơi mình trong ánh nắng. Nếu không có lần thứ hai trở về với Vĩ Dạ chắc hẳn tiếc nuối và đau đớn lắm! Bức tranh thiên nhiên bỗng có bước “cóc nhảy” khi hình ảnh được thể hiện dường như đầy chia lìa, tan tác:
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Một cái nhìn rất tâm trạng chứ không phải là cảnh tả thực cuộc sống như trước đó nữa. Cuộc sống thật thì làm gì có gió một lối mây một đường mà phải là “gió thổi mây bay” mới đúng. Hàn Mặc Tử đã nhập vào cảnh sắc thiên nhiên để thể hiện cảm xúc cô đơn lạc lõng bởi dường như gió và mây đang cố bỏ rơi dòng nước và hoa bắp. Ở lại là một dòng nước “buồn thiu” ủ dột, rã rời, đau đớn còn bắp thì “lay” tẻ nhạt, vô duyên. Bức tranh Hương giang khiến người ta như bước hụt.
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Nắng tắt, trời chiều, cảnh vật ngơ ngác, ngay đến cả dòng sông Hương của xứ Huế với đêm trăng thơ mộng cũng đi đâu mất. Chỉ có một “thuyền ai” không xác định và một bến sông lênh láng ánh trăng cô quạnh đợi thuyền. Trăng xuất hiện hai lần trong câu thơ đẹp huyền diệu, mĩ lệ đấy nhưng khiến người đọc nhận ra ánh sáng ở khổ 1 của nắng mới lên tinh khiết rõ ràng bao nhiêu thì ánh sáng của trăng hư ảo, nhạt nhòa bấy nhiêu. Một bức tranh thiên nhiên hoàn toàn lạnh giá!
Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử thể hiện một bức tranh thiên nhiên vừa đẹp vừa thấm thía cô đơn, sầu tủi thông qua ngôn từ sáng tạo, âm điệu đa dạng, hình ảnh vừa gần gũi vừa mới lạ… Qua đó, người đọc thấy được tình yêu thiên nhiên, đất nước sâu sắc của Hàn. Bài thơ đã góp thêm một bức tranh thiên nhiên Việt Nam cho kho tàng văn học nước nhà.
-
Bài Đây thôn Vĩ Dạ ra đời có nguyên cớ sâu xa từ những kỉ niệm của Hàn Mặc Tử về cảnh Huế và con người Huế. ông đã từng học ở Huế. Khi làm việc ở Qui Nhơn, ông có quen biết một người con gái Huế là Hoàng Cúc. Sau đó, ông vào Sài Gòn làm báo, có trở ra Qui Nhơn thì Hoàng Cúc đã về thôn Vĩ Dạ. Có lần cô đã gửi cho anh một bức bưu ảnh kèm theo lòi thăm hỏi, đây chính là cái cớ đã gợi cảm hứng để Hàn Mặc Tử viết lên kiệt tác Đây thôn Vĩ Dạ – bài thơ vừa là bức tranh huyền ảo đượm buồn về một mối tình xa xăm vô vọng. Tuy nhiên, qua đây ta thấy biết bao nhiêu yêu mến thiết tha với thiên nhiên, với cuộc sống và đất nước, con người.
Bắt đầu là một câu hỏi trách móc nhẹ nhàng của một người con gái. Lời trách thực ra là một thái độ nũng nịu, làm duyên, đầy âu yếm thiết tha:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Câu hỏi cũng cho ta thấy phần nào tính cách của người hỏi, đó là sự thùy mị, kín đáo của con người gia giáo. Một tình yêu thành thật được nói với ngôn ngữ tiết chế. Chỉ cần thay câu thơ này bằng cách diễn đạt: “Anh sao không về thăm thôn Vĩ?”, thì cái tế nhị, cái kín đáo đã giảm đi rất nhiều. “Anh”, mở đầu nó lộ diện quá, “thăm” nó gần gũi quá, yêu cầu cái bổn phận của người ta quá.
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Dòng thứ 2 là một sự đáp ứng ngay lập tức của nhân vật “anh” hình như cái tín hiệu phát đi thì mong manh, mờ nhạt còn nơi tiếp nhận thì lại quá nhạy cảm. Hàn Mặc Tử không hề suy nghĩ về cái thực, cái hư trong lời mời, anh đang chờ đợi và chỉ cần có lời mời ấy thôi.
Hai câu thơ rất khó giải thích về ý nghĩa thực tế. Người vừa hỏi dứt câu thì kẻ nghe câu hỏi đã vượt một không gian mênh mông về ngay thôn Vĩ. Thực ra câu hỏi ấy chính là một điểm lóe sáng trong, tâm tư chợt thức. Hàn nghe rất rõ, rất rành rọt nhưng chúng ta thì không nghe. Kí ức riêng tư đã hiện về qua những lần quằn quại đau với bệnh tật nghiệt ngã. Thơ Hàn đầy những nỗi đau thương, đau thương đến điên dại nhưng cũng có khi nó thanh khiết đến tuyệt vời. Trong đau thương thường có những phút giây khoảnh khắc của hạnh phúc. Người ta phải bám lấy nó như chiếc phao cứu mệnh như sự cứu rỗi linh hồn. Những phút sáng láng ấy trong thơ Hàn thường là nghĩ về nước Chúa, nghĩ về một quá khứ và tình yêu tưởng tượng. Thôn Vĩ hiện lên thật đẹp cứ như một khu vườn cổ tích, cứ như một cái vườn địa đàng mà Hàn lần đầu tiên phát hiện, nó trùng với cái ước nguyện về với Chúa.
Thôn Vĩ trong con mắt của Hàn đã trở thành một thế giới mà ông mơ ước. Nó đẹp không phải là có những hàng cau cao, những khu vườn sum suê cành lá và khuôn mặt chữ điền. Cái đẹp ấy nó có mặt ở khắp mọi nơi của thôn quê Việt Nam từ Bắc đến Nam. Cái đẹp của thôn Vĩ là ở chỗ đôi mắt của họ Hàn. Dường như ông không về ngay thôn Vĩ mà là đứng từ xa, lặng người chiêm ngưỡng sắc đẹp của thôn Vĩ, sau đó đi gần lại những khu vườn và cuối cùng nó cụ thể hơn là nhìn “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Nhưng cái quan trọng hơn đó là thôn Vĩ được nhìn vào buổi sáng bình minh “nắng mới lên”, nắng dường như mở ra từ “thượng thanh khí” từ trên trời đổ xuống ào ạt, phóng khoáng.
Một câu thơ có đến hai từ “nắng”, một cái nắng hiện thực, thắp nến trên những ngọn cây cau và một cái nắng đẹp đến mức phải bình phẩm “nắng mới lên”. “Nắng mới” khơi gợi những gì tinh khiết sáng trong, và cái tinh khiết sáng trong ấy nó truyền từ trên cao tắm xuống cả khu vườn, một thứ nắng tinh khôi, lấp loáng. Khu vườn ấy cho ta một sắc xanh mỡ màng, óng mượt, ngời sáng long lanh. Cả khu vườn lá nõn mềm mại loáng nước sương, màu lá và màu nắng đã thành cái màu xanh ngọc diệu kì mà hơn một lần trong tâm tưởng Xuân Diệu đã nhìn thấy:
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá.
Cái ấn tượng về khu vườn cổ tích nó được bồi thấn bằng sự miêu tả xuýt xoa “mướt quá” và bằng sự so sánh “xanh như ngọc”.
Câu thơ thứ tư có rất nhiều cách hiểu:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Hàn đã về thôn Vĩ, đã đến khu vườn thôn Vĩ của nhà “ai” và vì thế ông ta đã ngưỡng vọng được cái khuôn mặt chữ điền của người con gái mời ông. Nói đơn giản, mặt chữ điền ở đây là khuôn mặt phúc hậu, đoan trang của người thôn Vĩ. Cảnh và người thôn Vĩ thật đẹp, thật đáng yêu. Hàn đã hành hương bằng con đường tưởng tượng vì thế thôn Vĩ mới lóe sáng, mới đẹp như vậy, cũng vì thế mà ta hiểu thêm nỗi đau xót xa thương nhớ đầy những niềm khao khát của một tâm hồn yêu trong trái tim rạng rỡ…
Khổ thơ thứ hai là hồi tưởng về một cảnh đẹp không thế tách rời thôn Vĩ, đó là dòng sông Hương, nó êm đềm và thơ mộng, nó chứa đựngbao cảm xúc và suy tư của nhà thơ. Hai câu đầu gợi cho ta một dòng sông và một không gian phóng khoáng về đất trời xứ Huế. Gió mây nhè nhẹ bay đi, dòng sông vẫn lững lờ, cây cỏ khẽ đong đưa. Tuy nhiên qua con mắt chủ quan hay nói đúng hơn những cảnh vật đã chứa đựng những sắc thái và cảm xúc của nhà thơ, tất cả cảnh vật đều được nhân hóa, nó biểu thị cái lòng người tan tác chia li.
Các quan hệ cặp đôi đã ngoảnh mặt quay lưng và dường như tự đóng cái tâm hồn cô đơn của mình. Gió thổi để mây bay, thế nhưng “Gió theo lối gió, mây đường mây”, dòng sông nổi sóng thì hoa bắp mới lay. Ở đây nước của dòng sông đọng thành vũng vì buồn, buồn đến thiu, đến thối, thế nhưng chẳng có ai chia sẻ nỗi buồn ấy, hoa bắp như lay để đùa cợt trêu ngươi. Các quan hệ cặp đôi nó rời rạc nhưng lại tạo ra những quan hệ trớ trêu, gió thì không muốn hướng tới mây, nhưng hoa bắp lại lắt lay vì gió; sóng chỉ nổi lên khi có gió nhưng mặt nước vẫn buồn thiu…
Dường như khổ thơ đầu là bình minh thì khổ thơ thứ hai là buổi chiều ảm đạm và đêm. Hai dòng thơ sau cho thấy Hàn có buồn, có cô đơn nhưng vẫn biết bao yêu mến thiết tha xứ Huế. Do đó cảnh thực mà cứ như ảo. Sông thật (gợi tới sông Hương) đã trở thành sông Trăng; thuyền thật đã trở thành chiếc thuyền Trăng. Dường như trăng là chất liệu của một dòng sông, một con thuyền đơn độc đầy mộng tưởng, đậu ở bến sông Trăng đang muốn chở Trăng về một nơi nào đó trong mơ.
Đi qua cái thế giới hình tượng độc đáo mà cảnh đẹp lên nhiều lần, ta gặp được cái thơ mộng tuyệt vời của cảnh sông, con thuyền trên sông ở đất cố đô. Dĩ nhiên, dưới lớp vỏ của cảnh đẹp xứ Huế, của con thuyền Trăng thôn Vĩ người ta gặp một tâm hồn đang khẩn thiết, đang tính từng giây khát khao được có trong tay mình hạnh phúc. Từ hai bờ sông trăng ấy, cái bí mật huyền diệu của con thuyền Trăng ấy bỗng vọng lên một câu hỏi:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Trăng muôn đời là biểu tượng của hạnh phúc, “tối nay” là muốn nói cái thời gian hữu hạn trước mắt, “kịp” hé mở cho ta thấy một mặc cảm: mặc cảm về hiện tại ngắn ngủi, hé mở cho ta thấy một cách sống: sống là phải chạy đua với cái chết, với bạo bệnh. Vâng, mời tôi về thôn Vĩ nhưng có cho tôi được hạnh phúc kịp thời không? Vì:
Một mai tôi chết bên khe Ngọc Tuyền
Bây giờ tôi dại, tôi điên
Chắp tay tôi lạy mọi miền không gian
Câu hỏi “Có chở…” là một vái lạy không gian thôn Vĩ, con người thôn Vĩ trong cái tâm trạng điên dại của hiện tại, vì thế nó là khát vọng rất đớn đau. Vì thế, ánh trăng rất nhẹ, “tối nay” rất ngắn lại được nói bằng chữ “kịp”, bằng cái tâm hồn nặng trĩu nỗi đau. Hàn Mặc Tử rất yêu trăng, trăng tràn vào mọi thi tứ đẹp nhất của Hàn, đây là trăng xứ Huế với Vĩ Dạ đò trăng. Cảnh vật làm cho chúng ta thêm một lần yêu Huế đẹp, Huế thơ; tuy nhiên con người thôn Vĩ ấy là một ẩn số không biết có đáp lại một tình yêu nông nổi chân thành? Vì thế mà Hàn tâm sự với trăng.
Hai khổ đầu nói nhiều đến cảnh, còn khổ cuối thì chủ yếu nói về tâm sự của nhân vật trữ tình.Giấc mơ nào về tình yêu cũng đẹp nhưng giấc mơ được báo động, nó chỉ làm đau khổ trái tim. “Khách đường xa” nó xa lạ hơn đại từ “ai” và dĩ nhiên sẽ xa lạ hơn rất nhiều người con gái hỏi câu đầu tiên trong bài thơ. Thế mà “khách đường xa” điệp đến 2 lần như phá vỡ một giấc mơ. “Khách đường xa” hiện lên rồi hình như gót sen rời bước xa dần, có níu lại cũng không sao được. Đang tuyệt vọng thì người khách ấy lại trở về cho hi vọng, “khách đường xa” đã thành “em” trong gang tấc. Hạnh phúc đột biến bất ngờ không hề được dự báo đã khiến Hàn choáng váng, cái áo trắng kì lạ ấy lại nhìn rất rõ. Có phải là sương khói xứ Huế làm mờ nhân ảnh mà Hàn “nhìn không ra” .Trong ý nghĩa ẩn dụ, đây là một mặc cảm mà người ta thường có:
Em lớn quá anh làm sao giữ nổi?
Nên lúc nào em muốn cứ xa anh
(Sêpia)
Hàn mong ước tình yêu, khi tình yêu không tới thì dỗi hờn, trách móc. Nhưng khi người yêu hi sinh cho anh (dĩ nhiên do tưởng tượng) thì Hàn lại sợ, lại không dám nhìn vào hạnh phúc chứ không phải là “nhìn không ra”. Câu thứ 3: “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” lại trở về với nhận thức mình không có tình yêu. Câu thơ có dư vị chua chát của triết lí ngàn đời “Con quay búng sẵn lên trời – Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm” (Nguyễn Gia Thiều). Vâng, hạnh phúc trong đời là một cuộc xổ số có mấy ai cầm được tấm độc đắc? Vì thế mà Hàn nghẹn ngào, nghi ngờ, buồn tủi. Câu hỏi nghi vấn nhưng thực ra là tan vỡ hi vọng một mối tình trong tâm tưởng:
Ai biết tình ta có đậm đà?
Hai từ “ai” nhắc lại đối tượng mà mình yêu vì thế mà nó tha thiết, nhưng cũng vì thế mà nó xa lạ. Vừa mói xưng “em” được một lần, Hàn đã nhận ra đó là ai. Hàn không cần những tình yêu thoáng qua. Muốn có một tình yêu đậm đà trong hoàn cảnh bi kịch đâu phải dễ?
Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh bằng thơ thật đẹp bởi vì có sự hài hòa giữa thực và ảo, giữa cảnh và người, giữa tình yêu con người và tình yêu thiên nhiên. Tình yêu được viết ra từ trái tim của một con người đang ngày đêm đếm từng giờ để gặp mặt cái chết thật đáng trântrọng. Hàn sắp về với thế giới bên kia nhưng vẫn khát khao một tình yêu trần thế. Đó là một giá trị nhân văn, là niềm mơ ước không nguôi của Hàn. Hàn sẵn sàng ngã giá.
Ai mua trăng, tôi bán trăng cho
Chẳng bán tình duyên ước hẹn hò.
-
Đây thôn Vĩ Dạ được in trong tập Thơ Điên của Hàn Mặc Tử. Bài thơ được ông viết khi nhận được bức ảnh chụp về phong cảnh Huế kèm theo mấy lời thăm hỏi của người bạn gái có tên là Hoàng Cúc. Những kỉ niệm về vùng đất và con người xứ Huế được sống lại trong bài thơ. Lúc này, ở Quy Nhơn ông đã biết mình mắc bệnh hiểm nghèo. Vì vậy bài thơ là một bức tranh đẹp về thiên nhiên xứ Huế nhưng cũng thấm đượm nỗi buồn da diết, bâng khuâng,
Mở đầu bài thơ là một câu hỏi: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?”,câu hỏi như một lời trách cứ nhưng dường như cũng là lời tự vấn,thể hiện niềm nuối tiếc. Cảnh sắc của buổi sớm mai được miêu tả thật sinh động.
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Ánh nắng ban mai tươi đẹp chiếu qua những tán lá cau,những mảnh vườn cây xanh non mơn mởn vẫn còn đẫm sương. Cảnh sắc thật tươi mới, thật trong lành. Xứ Huế mộng mơ hiện lên thật tươi đẹp và thật nên thơ. Sau vườn cây xứ Huế là thiên nhiên xứ Huế. Cảnh trời, mây, sông, nước ở đây thật đẹp, nhất là cảnh một dòng sông được tưới đẫm ánh trăng với con thuyền cũng đầy ắp ánh trăng. Nhưng tất cả đều thấm đượm nỗi buồn. Cách miêu tả thể hiện trạng thái ảo mộng của tâm hồn thi sĩ.
Nếu như ở khổ thơ đầu, nỗi buồn chỉ lộ rõ ở một câu thì ở khổ thơ này, dường như nỗi buồn giăng trải ra ở khắp cả khổ thơ: “Gió theo lối gió,mây đường mây” Câu thơ diễn tả sự phân cách, li tán của thiên nhiên nhưng lại gợi ra sự chia ly của lòng người. “Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”, nỗi buồn của thi sĩ đã lan trải ra khắp không gian. Lòng người sầu muộn khiến cảnh vật cũng đượm buồn.
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Ánh trăng huyền ảo tràn đầy mặt sông. Tâm trạng mộng mơ của thi sĩ dường như đã cảm nhận được tất cả: sông trăng, bến trăng, thuyền chở trăng. Khổ thơ cho thấy con người nhà thơ rất cô đơn, đang khao khát được ai đó chia sẻ, tâm sự. Có chở trăng về kịp tối nay là một câu hỏi vừa như khắc khoải, bồn chồn, vừa như hy vọng chờ đợi một cái gì đang rời xa, biết có khi nào quay trở lại.
Khổ thơ thứ ba thể hiện một nỗi niềm canh cánh của thi sĩ trong không gian bao la của trời, mây, sông, nước đã thấm đẫm ánh trăng. Đó là sự hy vọng, chờ đợi, và một niềm khắc khoải khôn nguôi. Vẫn ở trong mộng ảo, vì vậy cảnh và người ở đây đều hư hư, thực thực.
“Mơ khách đường xa,khách đương xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Nhà thơ mơ thấy một khách đường xa, cảm nhận rõ một bóng hình người con gái Huế thơ mộng trong tà áo trắng song không thể nắm bắt được, thoắt ẩn, thoắt hiện.Sự hụt hẫng đến cao độ, nhà thơ muốn bấu víu, cầm nắm mà không được vì cảnh đầy màu hư ảo lẫn khói mây.Thi sĩ như cảm thấy sự vô lực với tình yêu,như một nỗi day dứt mối tình không được toàn vẹn.
Biết là “em” mà lại “nhìn không ra”,không phải thi sĩ không nhìn thấy mà là không dám nhìn vào hạnh phúc,bởi hạnh phúc giờ đây là quá xa vời, quá hư ảo. Cảnh xứ Huế mộng mơ thật đẹp, giàu sức sống nhưng đượm một nỗi buồn bâng khuâng, da diết. Cảnh ấy như là sự thể hiện tâm hồn của một thi sĩ tài hoa nhưng đa sầu, đa cảm. Mỗi khổ thơ là một câu hỏi, như một nỗi buồn day dứt lòng người.
Bài thơ thể hiện một tâm trạng rất thật của nhà thơ đó nỗi buồn,sự luyến tiếc với cõi trần,với cuộc sống, với tình yêu. Tình yêu được viết ra từ trái tim của một con người đang ngày đêm đếm từng giờ để trở về bên kia thế giới.
-
Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử là một tác phẩm đầy tinh tế, khắc họa vẻ đẹp tự nhiên của thôn Vĩ Dạ và thể hiện tâm trạng của nhà thơ. Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ số 12, các bạn có thể tập trung vào các yếu tố sau:
- Khung cảnh thiên nhiên trong khổ thơ đầu:
- Bài thơ mở đầu bằng câu hỏi tu từ "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?" gợi lên cảm giác mời gọi, thân thiện của một vùng quê.
- Hình ảnh "nắng hàng cau" là một hình ảnh sáng tươi, trong lành. Nắng ở đây không gay gắt mà nhẹ nhàng, lan tỏa, chiếu xuống hàng cau cao vút, biểu tượng của sự thanh khiết, thanh tao.
- Câu thơ tiếp theo "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc" mang đến hình ảnh vườn cây xanh tốt, tươi mát như một viên ngọc quý giá. "Mướt quá" và "xanh như ngọc" gợi lên sức sống mãnh liệt, sự tươi mới và tinh khiết của thiên nhiên.
- "Lá trúc che ngang mặt chữ điền" tạo ra hình ảnh yên bình, đơn sơ nhưng ấm áp, thể hiện vẻ đẹp dung dị của con người và thiên nhiên thôn Vĩ.
- Tâm trạng của nhà thơ qua bức tranh thiên nhiên:
- Bức tranh thiên nhiên ở thôn Vĩ Dạ không chỉ là miêu tả cảnh sắc mà còn chứa đựng nỗi lòng của nhà thơ. Qua cảnh thiên nhiên, nhà thơ bày tỏ niềm nhớ nhung, mong mỏi được quay lại nơi ấy, nhưng đồng thời cũng là một sự xa cách, luyến tiếc.
- Thiên nhiên tươi đẹp nhưng lại mang một nỗi buồn thầm kín, phản ánh tâm trạng cô đơn, lẻ loi của Hàn Mặc Tử khi ông biết mình không thể trở về cuộc sống bình thường do căn bệnh hiểm nghèo.
- Sự kết hợp giữa thiên nhiên và tình người:
- Thiên nhiên trong bài thơ không chỉ là phong cảnh mà còn là biểu hiện của tình cảm con người. Thôn Vĩ Dạ hiện lên vừa gần gũi, thân thương, vừa xa cách, mờ ảo, như tình yêu chưa trọn vẹn của nhà thơ dành cho người con gái nơi ấy.
- Kết luận:
- Bức tranh thiên nhiên trong "Đây thôn Vĩ Dạ" là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt đẹp, vừa tả cảnh vừa tả tình, tạo nên một không gian đầy cảm xúc. Qua đó, Hàn Mặc Tử không chỉ khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn truyền tải những nỗi niềm, tâm sự sâu kín của mình.
- Khung cảnh thiên nhiên trong khổ thơ đầu:
-
"Đây thôn Vĩ Dạ" là một trong những bài thơ nổi tiếng và đặc sắc nhất của Hàn Mặc Tử, một thi sĩ tài hoa nhưng bạc mệnh của phong trào Thơ Mới Việt Nam. Bài thơ được sáng tác vào năm 1938, khi Hàn Mặc Tử đang sống trong cảnh cô đơn và bệnh tật tại trại phong Quy Hòa, Quy Nhơn.
1. Hoàn cảnh sáng tác:
Bài thơ được ra đời khi Hàn Mặc Tử nhận được bức thư và tấm bưu ảnh của Hoàng Cúc, một người con gái mà ông từng có tình cảm thầm kín khi còn sống ở Huế. Tấm bưu ảnh ghi lại cảnh thôn Vĩ Dạ, nơi Hoàng Cúc sống. Đối với Hàn Mặc Tử, thôn Vĩ Dạ là biểu tượng của một tình yêu trong sáng, một nơi chốn mộng mơ nhưng cũng đầy nuối tiếc.
2. Nội dung chính:
- Bài thơ là một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, thanh bình của thôn Vĩ Dạ, nhưng ẩn chứa trong đó là nỗi buồn sâu lắng, nỗi cô đơn và những khắc khoải về tình yêu và cuộc đời của nhà thơ.
- "Đây thôn Vĩ Dạ" gồm ba khổ thơ, mỗi khổ là một nét vẽ khác nhau về cảnh sắc và tâm trạng:Khổ đầu: Miêu tả khung cảnh buổi sáng ở thôn Vĩ Dạ với những hàng cau, vườn cây xanh mướt và hình ảnh con người phúc hậu, hiền lành.
- Khổ hai: Mô tả cảnh sông nước ban đêm với hình ảnh con thuyền và trăng, biểu tượng của sự mơ mộng nhưng cũng là sự xa cách, cô đơn.
- Khổ ba: Là tâm trạng của nhà thơ với những câu hỏi về tình yêu, sự nghi ngờ và nỗi buồn trước cuộc sống phù du.
3. Nghệ thuật:
- Hàn Mặc Tử sử dụng ngôn ngữ tinh tế, giàu hình ảnh và âm điệu để tạo nên một bài thơ vừa đẹp về cảnh sắc, vừa sâu sắc về cảm xúc.
- Bài thơ kết hợp giữa tả thực và lãng mạn, giữa cảnh và tình, giữa hiện thực và mộng mơ, tạo nên một không gian thơ đầy sức gợi.
4. Ý nghĩa:
- "Đây thôn Vĩ Dạ" không chỉ là một bài thơ về cảnh đẹp của thôn Vĩ, mà còn là bức tranh tâm trạng của Hàn Mặc Tử trước cuộc đời, tình yêu và số phận. Bài thơ là tiếng lòng của một người nghệ sĩ tài hoa nhưng phải chịu nhiều đau đớn và bất hạnh, đồng thời cũng là một trong những bài thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới.
- Bài thơ đã ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc, không chỉ bởi vẻ đẹp thơ mộng của cảnh vật mà còn bởi những tâm sự chân thành và sâu lắng của Hàn Mặc Tử.
-
Phong cách sáng tác trong "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử thể hiện sự kết hợp độc đáo giữa vẻ đẹp thiên nhiên, sự tinh tế trong cảm xúc và những yếu tố siêu thực, tượng trưng. Dưới đây là một số nét đặc trưng trong phong cách sáng tác của Hàn Mặc Tử thể hiện qua bài thơ này:
1. Sự kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn:
- Hiện thực: "Đây thôn Vĩ Dạ" mở đầu bằng những hình ảnh hiện thực, gợi lên vẻ đẹp trong trẻo, thanh bình của thôn quê miền Trung Việt Nam. Hình ảnh "nắng hàng cau", "vườn ai mướt quá xanh như ngọc" đều là những cảnh sắc quen thuộc, chân thực của làng quê.
- Lãng mạn: Bên cạnh những hình ảnh hiện thực, Hàn Mặc Tử còn phủ lên bài thơ một lớp áo lãng mạn, mộng mơ. Các yếu tố thiên nhiên được miêu tả với sự tinh tế và gợi cảm, tạo nên một không gian thơ đầy ảo mộng, mơ hồ.
2. Sự tinh tế trong cảm xúc và ngôn từ:
- Cảm xúc: Hàn Mặc Tử rất khéo léo trong việc truyền tải những cảm xúc phức tạp, đa chiều qua bài thơ. Đằng sau những bức tranh thiên nhiên đẹp đẽ là một nỗi buồn thấm đẫm, nỗi nhớ nhung và cả sự tiếc nuối, xa cách. Nhà thơ dùng ngôn từ một cách tinh tế để gợi lên những cảm xúc sâu kín, thầm lặng nhưng đầy sức nặng.
- Ngôn từ: Ngôn từ trong "Đây thôn Vĩ Dạ" vừa giản dị, gần gũi, vừa trau chuốt, gợi cảm.
- Hình ảnh "Lá trúc che ngang mặt chữ điền" là một ví dụ điển hình cho sự tinh tế trong việc lựa chọn từ ngữ của Hàn Mặc Tử, khiến cảnh vật và con người hòa quyện, đầy chất thơ.
3. Sự pha trộn giữa thực và ảo, giữa hữu hình và vô hình:
- Trong "Đây thôn Vĩ Dạ", Hàn Mặc Tử khéo léo đan xen những yếu tố thực và ảo, hữu hình và vô hình, tạo nên một không gian thơ đầy mê hoặc. Hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp nhưng ẩn chứa nỗi buồn xa cách, nỗi nhớ nhung như một ảo ảnh không thể chạm tới.
- Các hình ảnh như "Gió theo lối gió, mây đường mây" hay "Thuyền ai đậu bến sông trăng đó" đều mang tính chất mơ hồ, siêu thực, khiến người đọc cảm nhận được sự hư ảo, phiêu diêu của cảnh vật và cảm xúc.
4. Yếu tố tượng trưng và siêu thực:
- Tượng trưng: Hình ảnh con thuyền, sông nước, trăng sao trong bài thơ không chỉ miêu tả cảnh vật mà còn mang ý nghĩa tượng trưng cho những tâm trạng, cảm xúc của nhà thơ. Trăng là biểu tượng của sự cô đơn, mộng mơ và cũng là dấu ấn đặc trưng trong thơ Hàn Mặc Tử.
- Siêu thực: Hàn Mặc Tử sử dụng yếu tố siêu thực để diễn tả một cách sâu sắc những cảm xúc, tâm trạng mà ngôn từ thông thường khó có thể truyền tải hết. Những hình ảnh như sông trăng, thuyền mộng tạo nên một thế giới siêu thực, đầy huyền bí, đưa người đọc vào những không gian khác thường, phiêu lãng.
5. Sự pha trộn giữa truyền thống và hiện đại:
- Truyền thống: Hàn Mặc Tử sử dụng nhiều hình ảnh, biểu tượng quen thuộc trong văn hóa Việt Nam như cau, trúc, vườn cây, con thuyền, ánh trăng, nhưng ông đã thổi vào đó một hơi thở mới, tạo nên những sắc thái cảm xúc độc đáo.
- Hiện đại: Phong cách sáng tác của Hàn Mặc Tử mang nhiều yếu tố hiện đại, đặc biệt là việc sử dụng hình ảnh, ngôn từ và cảm xúc một cách táo bạo, đầy sáng tạo. Bài thơ không đi theo lối mòn của những bài thơ truyền thống mà mở ra một không gian mới, nơi mà thiên nhiên và tâm hồn con người hòa quyện, phản chiếu lẫn nhau.
Kết luận:
Phong cách sáng tác của Hàn Mặc Tử trong "Đây thôn Vĩ Dạ" là sự kết hợp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn, giữa truyền thống và hiện đại, giữa thực và ảo. Tất cả đã tạo nên một tác phẩm thơ đầy sức gợi, vừa đẹp về hình thức vừa sâu sắc về nội dung, khiến bài thơ trở thành một kiệt tác trong nền văn học Việt Nam.