Top 10 Bài văn cảm nhận về nhân vật Huấn Cao trong "Chữ người tử tù" hay nhất
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn xuất sắc trên văn đàn Việt Nam. Ông viết rất nhiều thể loại nhưng tiêu biểu hơn cả đó chính là tùy bút, truyện ngắn và ... xem thêm...một trong những tác phẩm nhận được nhiều sự chú ý nhất của ông đó chính là tác phẩm Chữ người tử tù. Trong tác phẩm Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công nhân vật Huấn Cao. Dưới đây là một số bài văn mẫu với đề cảm nhận về nhân vật Huấn Cao trong "Chữ người tử tù" mà Toplist sưu tầm, mời các bạn tham khảo:
-
Là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân đã dành trọn đời mình để viết nên những trang văn mà ở đó có một nguồn mỹ cảm dạt dào dành cho tất thảy những gì đẹp nhất trên đời. Viết rất hay về những thú chơi đẹp, uống đẹp, nhắm đẹp, Nguyễn Tuân cũng không bỏ quên cái đẹp ngời ngời như ngọc sáng trong nhân cách con người. Có người nói sự nghiệp Nguyễn Tuân sẽ không thể toàn vẹn nếu thiếu đi "Vang bóng một thời", và "Vang bóng một thời" cũng sẽ khiếm khuyết nếu không có sự góp mặt của thiên truyện "Chữ người tử tù". Huấn Cao trong tác phẩm là một nhân cách sáng và đẹp mà Nguyễn Tuân đã sáng tạo nên bằng cả niềm trân trọng và tài năng của mình, gửi vào đó nhân sinh quan về cái đẹp một cách sâu sắc.
Huấn Cao được nhớ đến trước hết là bởi vẻ đẹp của một tài năng siêu việt, toàn diện trên cả văn và võ. Bằng một cách rất tinh tế và rất Nguyễn Tuân, nhà văn đã không để nhân vật của mình xuất hiện trực diện mà qua cuộc trò chuyện của viên quản ngục và thầy thơ lại. Nhưng dẫu là nhìn qua nhãn quan của những kẻ đối nghịch, tài năng của Huấn Cao vẫn không thể bóp méo. Như người xưa nói, "văn kì thanh bất kiến kì hình", Huấn Cao đã bước vào trang văn Nguyễn Tuân như một hình tượng tuyệt mỹ.
Cái tài của ông Huấn là tài nghệ thư pháp. Là một người "viết chữ rất nhanh và rất đẹp", danh tiếng của ông Huấn đã lan ra khắp một vùng tỉnh Sơn, đến tai cả những người như quản ngục và thơ lại, khiến họ cũng phải trầm trồ và dè dặt. Quả thực, tiếng lành đồn xa, tài viết chữ của Huấn Cao vốn đã thành danh bất hư truyền. Thú chơi chữ mà Huấn Cao say mê là một trong những nhã thú thanh cao của cổ nhân, là biểu trưng cho văn hóa cổ truyền dân tộc. Những con chữ tượng hình nói lên nhân cách phẩm giá và chí khí của con người. Chính quản ngục cũng phải cảm khái: "Chữ ông Huấn đẹp lắm, vuông lắm, có được chữ ông treo trong nhà là một vật báu ở đời." Trong một xã hội mà Đông Tây bát nháo, ối a bông phèng, cái cũ thì chưa suy hẳn mà cái mới thì chưa kịp thay thế hết, Nguyễn Tuân là một nhà nho mang tâm thế bất hòa, bất mãn, bất lực với thực tại, xây dựng nhân vật với một tài năng siêu việt về thú chơi cổ truyền như một cách để nhà văn bày tỏ những tiếc nuối về một quá khứ vàng son đã qua nay chỉ còn vang bóng.
Khi Huấn Cao diện kiến trực tiếp với bạn đọc, thì người quân tử ấy còn được biết đến như một trang anh hùng nghĩa liệt với khí phách hiên ngang. Vốn là một người song toàn văn võ, bên cạnh tài thư pháp còn có tài "bẻ khóa và vượt ngục", Huấn Cao là cái tên khiến những người trong ngục tù phải dè chừng. Trong mắt triều thần, ông là một người cầm đầu bọn phản nghịch, nhưng thực chất đó là một anh hùng đứng lên vì chính nghĩa, dám chống lại triều đình vì bảo vệ lẽ phải. Ông là hiện thân của một con người kinh bang tế thế, anh hùng cái thế.
Khi được đặt vào hoàn cảnh lao tù, hình ảnh Huấn Cao càng nổi bật lên với những vẻ đẹp khí phách hiên ngang lẫm liệt. Điềm nhiên bước vào nhà lao, hành động đầu tiên của Huấn Cao là dỗ gông, không mảy may đếm xỉa đến vương quyền trên đầu: "Huấn Cao khom mình, chúc mũi gông nặng, thúc mạnh vào đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái". Đó là hình ảnh của một người anh hùng ngang tàng, một nam tử Hán đại trượng phu "Đỉnh thiên lập địa" không cam chịu cảnh tù đày áp bức, muốn bứt phá gông cùm xiềng xích để thoát khỏi vòng nô lệ.
Những ngày bị giam thân nơi chốn ngục tù, Huấn Cao không một chút khiếp sợ. Người xưa thường nói "Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại" (Một ngày ở trong tù bằng nghìn thu ở ngoài). Thay vì buồn rầu, chán nản "gậm một mối căm hờn trong cũi sắt" thì ông lại thản nhiên nhận rượu thịt như việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm. Câu nói của Huấn Cao với quản ngục cũng thể hiện một khí phách ngang tàng trước cường quyền bạo lực: "Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng bao giờ đặt chân vào đây." Lời tuyên bố dõng dạc đủ để thấy Huấn Cao đã bỏ ngoài hết thảy những sợ hãi và lo âu, không để tâm người mình đang đối đầu là kẻ đang nắm quyền, đang nắm giữ sự sống. Trong con người của kẻ tử tù ấy thể hiện đúng tinh thần "uy vũ bất năng khuất". Uy quyền trên đầu không thể ràng ép, bạo lực chực chờ không thể đánh gục. Dẫu ngày mai là ngày bị giải ra pháp trường và đón nhận lấy cái chết thì khí chất người anh hùng vẫn thế, luôn vững vàng.
Sáng lên hơn cả trong nhân cách người tử tù là một thiên lương trong sáng, vững lành, có sức mạnh cứu rỗi những tâm hồn đang dần bị bôi đen. Đó là nhân cách của bậc đại trí, đại dũng, không bao giờ bị lung chuyển trước uy quyền phi nghĩa và đồng tiền phàm tục: "Ta nhất sinh không vì vàng bạc hay quyền quý mà ép mình phải viết chữ bao giờ". Một con người ý thức sâu sắc được thiên chức và phẩm giá của nghệ thuật. Một con người không bao giờ thị tài.
Đáng quý hơn, Huấn Cao không chỉ trọng thiên lương của mình mà còn trọng thiên lương của kẻ khác. Điều này được thể hiện trong cách ứng xử chân tình mà ông dành cho quản ngục. Khi chưa hiểu được tấm lòng quản ngục, ông khinh bỉ đến điều, coi thường y như coi thường một kẻ cầm tay đao suốt đời chỉ sống trong nhơ bẩn, sống vì phi nghĩa. Còn khi đã hiểu ra cái "sở nguyện cao đẹp" của y, ông hết sức cảm mến và trân trọng: "Nào ta có biết, người như thầy quản đây lại có sở nguyện cao đẹp như thế. Thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ." Cũng chính sự thấu hiểu này đã đưa hai con người từ đối đầu thành tri âm tri kỉ.
Nhưng có lẽ tài năng khí phách và nhân cách cao đẹp của ông Huấn thể hiện rõ nhất, tập trung nhất, hài hòa nhất ở cảnh cho chữ - cảnh mà Nguyễn Tuân gọi là "một cảnh tượng xưa nay chưa từng có". Đêm đã khuya, chỉ sáng mai thôi là người tử tù phải vào kinh chịu án chém, nhưng ông Huấn vẫn trút hết tài năng sáng tạo vào ngòi bút và viết ra những con chữ vuông tươi tắn nói lên cái "chí khí tung hoành của đời một con người". Ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu, mùi mực thơm, màu trắng của tấm lụa bạch như xua tan đi bóng tối ngục thất đầy màng nhện, tổ rệp, phân gián, phân chuột. Ánh sáng đỏ rực của bó đuốc hay ánh sáng thiên lương làm cho hình ảnh tử tù Huấn Cao thêm ngạo nghễ, uy nghi. Cổ đeo gông, chân vướng xiềng, cái chết kề bên, ông Huấn vẫn "dậm tô nét chữ" trong tư thế của người nghệ sĩ chân chính đang làm chủ lao tù. Sự thăng hoa của tài năng và bản lĩnh phi thường của ý chí đã đồng hiện và sáng lên trong cảnh cho chữ ấy.
Huấn Cao còn hiện lên thật đẹp ở khoảnh khắc ấy trong vai trò của người hướng thiện, hướng đạo cho kẻ mê muội. Lời khuyên chân thành dành cho kẻ tri âm đã làm sáng lên vẻ đẹp ấy: "Ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa với những nét chữ vuông tươi tắn nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người". Lời khuyên của Huấn Cao đã khẳng định rằng: Cái đẹp, cái thiên lương không bao giờ và không khi nào lại có thể chung sống với cái xấu, cái ác: "Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững được và rồi cũng nhen nhuốm mất cả cái đời lương thiện đi". Một lời khuyên thật thiện tâm, thiện ý, làm cho viên quản ngục cảm động: "vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh". Cái đẹp của nghệ thuật đã xóa nhòa mọi khoảng cách và ranh giới đưa con người đến với nhau trong vẻ đẹp Chân - Thiện - Mỹ.
Vẫn cái chất Nguyễn Tuân ở đó, uyên bác và tài hoa, trong cả tư tưởng và cách biểu hiện. Nhà văn đã thật thành công khi xây dựng được một tình huống truyện độc đáo. Hai kẻ lúc đầu là đối lập, sau lại thống nhất hài hòa, cùng tỏa sáng hào quang. Nghệ thuật kể chuyện, cấu trúc tình tiết, lời thoại và độc thoại, khắc họa tính cách nhân vật đặc sắc. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt từ Hán Việt rất đắt (pháp trường, tử tù, tử hình, nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung đường, lạc khoản, thiên hạ, thiên lương, lương thiện, v.v...) tạo nên màu sắc lịch sử, cổ kính, bi tráng. Đúng Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ, rất lịch lãm uyên bác về lịch sử, về xã hội. Đúng như lời Vũ Ngọc Phan đã nói"... văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức".
-
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn xuất sắc trên văn đàn Việt Nam. Ông viết rất nhiều thể loại nhưng tiêu biểu hơn cả đó chính là tùy bút, truyện ngắn và một trong những tác phẩm nhận được nhiều sự chú ý nhất của ông đó chính là tác phẩm Chữ người tử tù. Trong tác phẩm Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công nhân vật Huấn Cao.
Chữ người tử tù được rút trong tập Vang bóng một thời. Nhân vật chính trong tác phẩm chính là Huấn Cao, một con người hết sức có trách nhiệm trước thời cuộc. Huấn Cao là một người văn võ song toàn, thiên lương trong sáng. Là hiện thân tiêu biểu cho hình tượng khí phách cùng với tài hoa hơn người.
Trước hết ta bắt gặp ở nhân vật Huấn Cao đó chính là tư thế hiên ngang bất khuất, một con người mang nét đẹp khí phách hào hùng. Điều đó được thể hiện khi Huấn Cao bị bắt vào ngục. Lần đầu tiên Huấn Cao xuất hiện chính là qua lời nói chuyện của thơ lại và viên quản ngục. Trong tờ phiếu trát nói về sáu người tù chịu án chém sắp chuyển về nơi viên quản ngục đang cai quản để thi hành án. Trong đó Huấn Cao chính là “thủ xướng”. Quản ngục từ lâu đã nghe danh về Huấn Cao, là một người “văn võ toàn tài”. Nhân vật Huấn Cao đã xuất hiện một cách gián tiếp như vậy.
Thế rồi Nguyễn Tuân đã cho Huấn Cao xuất hiện một cách trực tiếp với những hành động thể hiện sự khí phách của mình đó là: “vỗ cái gông nặng bảy tám tạ xuống thềm đá”, “đánh thuỳnh một cái”. Thái độ coi thường, không thèm chấp sự dọa nạt của lính áp giải. Mặc dù là người tử tù nhưng vẫn thản nhiên nhận rượu thịt mà viên quản ngục đưa tới, thậm chí ông còn coi đó là một cái hứng bình sinh vẫn thường làm. Đồng thời cũng cho thấy ông là một người có lòng tự trọng, không ham danh lợi và sống đúng với lương tâm, với cá tính của mình. Huấn Cao còn thẳng thắn đáp trả khi biết viên quản ngục xin chữ của mình: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”.
Huấn Cao còn hiên ngang bất khuất ở chỗ ông coi khinh tất cả những kẻ đại diện cho giai cấp thống trị, những kẻ lợi dụng quyền thế mà áp bức, bóc lột dân lành. Huấn Cao chỉ coi những tên đó là một đám “tiểu dân thị oai”. Nguyễn Tuân đã cho ta thấy một Huấn Cao thản nhiên đối mặt với tất cả mọi thứ, một con người có thể tự do ngay chính nơi tù ngục giam cầm. Có thể nói kẻ thù, giai cấp thống trị có thể giam cầm ông về thể xác chứ không thể giam hãm tâm hồn của ông. Huấn Cao có lần còn trả lời thẳng thắn trước sự cung kính của viên quản ngục khi đưa rượu thịt cho ông rằng: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều: Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”.
Ở Huấn Cao ta còn thấy ở ông là một người hết sức tự trọng. Không vì tiền bạc, lợi ích mà sống trái với lương tâm của mình, sống luồn cúi trước ách thống trị của kẻ thù. Cá tính của ông còn được thể hiện qua lời miêu tả “Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. Đây cũng chính là lý do vì sao ban đầu ông không chịu cho viên quản ngục chữ. Huấn Cao quan niệm rằng chỉ có thiên lương trong sáng, tấm lòng biệt nhỡn nhân tài, yêu thích cái đẹp thì mới đáng quý, đáng trân trọng. Đây cũng là điều mà khi Huấn Cao biết được tấm lòng “biệt nhỡn nhân tài” của viên quản ngục thì ông mới thấu hiểu được tấm lòng yêu cái đẹp của quản ngục và quyết định cho viên quản ngục chữ là tạo nên một cảnh kinh điển cho tác phẩm đó chính là cảnh cho chữ.
Huấn Cao là một người rất khẳng khái, sẵn sàng nhận sai, sẵn sàng bày tỏ tâm tư, suy nghĩ của mình với tri kỉ. Khi biết tấm lòng của viên quản ngục ông đã phải thốt lên rằng: “Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Thêm vào đó ông còn đưa ra lời khuyên cho viên quản ngục: “Tôi bảo thực đấy, thầy quản nên tìm về quê nhà mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi rồi mới nghĩ tới việc chơi chữ. Ở đây, trong trốn lao tù khó giữ được thiện lương cho lành vững và rồi cũng nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi.” Có thể thấy đây là lời khuyên trân thành của Huấn Cao bởi ông như đã coi viên quản ngục là một trong những tri kỉ của mình mà nhắc nhở. Đồng thời cũng qua lời khuyên trên ta có thể thấy được ở nhân vật Huấn Cao giống như một nghệ sĩ tài hoa, là người có sự tồn tại của cái tài, cái đẹp và cái thiện.
Qua những phân tích trên có thể thấy rằng nhân vật Huấn Cao mang những vẻ đẹp đẽ phi thường. Ở ngay chốn lao tù, ngay trước cái chết nhưng ông không hề cảm thấy e sợ mà còn tìm thấy tri kỉ của đời mình. Đây là một hình tượng để lại nhiều ấn tượng cho độc giả, mang theo chiều sâu tư tưởng của tác giả khi quan niệm về giai cấp thống trị và bị trị.
-
Nguyễn Tuân là một nhà văn tài hoa - khí phách. Ngay từ trước Cách mạng tháng Tám, ngòi bút ấy đã biết hướng thiện, hướng mỹ để tìm ra và lưu giữ lại cho đời những vẻ đẹp của một thời vang bóng. Trong nhiều vẻ đẹp của Vang bóng một thời xuất bản năm 1940, nổi lên một vẻ đẹp chói lòa, rực rỡ, vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù nổi tiếng của ông.
Nhân vật Huấn Cao được sáng tạo từ một nguyên mẫu có thực trong cuộc đời, đó là nhà thơ Cao Bá Quát anh hùng khí phách lại nổi tiếng viết chữ đẹp một thời. Nguyên mẫu vốn đã đẹp, nhưng khi đi vào tác phẩm, nhờ điển hình hoá nghệ thuật, đã trở thành một hình tượng nhân vật lung linh tỏa sáng với ba vẻ đẹp rực rỡ chói loà: vẻ đẹp của tài hoa; của khí phách hiên ngang bất khuất, của "thiên lương" trong sáng. Ba vẻ đẹp này không tách rời nhau mà gắn bó chặt chẽ với nhau để làm nên vẻ đẹp của nhân vật lí tưởng của Nguyễn Tuân.
Huấn Cao là một người nghệ sĩ chân chính rất mực tài hoa, hiếm có trong nghệ thuật thư pháp. Ông "viết chữ rất nhanh và đẹp". Chữ viết của ông đã trở thành những bức tranh nghệ thuật và là niềm khao khát của những con người say mê cái đẹp: "có được chữ ông Huấn Cao mà treo là có một vật báu trên đời". Nhưng Huấn Cao là một con người sống có nhân cách, biết tự trọng. Ông luôn luôn đặt chữ tâm trên chữ tài, trên cả bạc vàng, địa vị: "Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối bao giờ". Cho nên xin được chữ của ông không phải là chuyện dễ, không phải ai cũng xin được trừ ba người bạn tri âm, tri kỷ của ông: "Tính ông vốn khoảng, từ chỗ tri kỷ, ông ít chịu cho chữ". Tuy vậy, nhưng khi ông "thấy cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài" của viên quản ngục thì ông lại bằng lòng cho chữ "nào ta có biết đâu một người thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đi phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ".
Những lời khuyên của Huấn Cao với viên quản ngục đã thể hiện rõ quan điểm thống nhất giữa cái tâm và cái tài, giữa cái đẹp và cái thiện: "Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những hoài bão tung hoành của một đời con người", "tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ cái thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời người lương thiện đi". Lời khuyên chân thành này của Huấn Cao đã gây xúc động mạnh và cảm hoá được viên quản ngục.
Huấn Cao còn là một người anh hùng, đầy khí phách, sống hiên ngang không hề khuất phục trước uy quyền và bạo lực. Huấn Cao là một lãnh tự của phong trào nông dân khởi nghĩa, ngang nhiên chống lại triều đình, Khi bị bắt, cổ đeo gông, bị giải vào nhà lao chờ ngày xử chém ông vẫn ung dung, không hề sợ sệt: "Huấn Cao đứng đầu gông, quay cổ lại bảo mấy bạn đồng chí: rệp cắn tôi, đỏ cả cổ lên rồi. Phải dỗ gông đi". Lời viên quản ngục nói với thầy thơ lại càng làm nổi bật cái tài và cái khí phách của Huấn Cao: "Thầy có nghe người ta đồn Huấn Cao ngoài cái tài viết chữ tốt, lại còn có tài bẻ khoá và vượt ngục nữa không?". Trong tù "Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh lúc chưa bị giam cầm", Huấn Cao còn khinh bỉ viên quản ngục, kẻ nắm trong tay quyền lực có thể hành hạ, đánh đập mình vì ông những tượng viên quản ngục này cũng như bao nhiêu viên quản ngục khác. Thái độ khinh bỉ của ông được thể hiện khá rõ trong câu trả lời câu hỏi của viên quản ngục: "Vậy ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất", "Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây".
Huấn Cao là một con người rất yêu cái đẹp, cái thiện. Chính vì vậy mà ông cảm thông được tấm lòng biết yêu cái đẹp của viên quản ngục, cho chữ viên quản ngục. Và cũng chính vì có quan niệm thống nhất giữa cái đẹp và cái thiện nên Huấn Cao đã khuyên viên quản ngục nên về quê, rời bỏ cái nghề quản ngục để giữ lấy cái đẹp và cái thiện.
Cảnh cho chữ diễn ra ở cái thời điểm đêm đã về khuya và trong một cái không gian chật hẹp, tối tăm của nhà ngục với "một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián". Trong cảnh này, tác giả đã khéo tạo những hình ảnh đối lập. Thứ nhất là sự đối lập giữa cái đẹp của "tấm lụa trắng tinh", "phiến lụa óng", "nét chữ vuông tươi tắn", thoi mực thơm" với cái dơ dáy, bẩn thỉu của "buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián". Thứ hai là sự đối lập giữa hình ảnh người tù "cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh váng" với hình ảnh viên quản ngục "khúm núm" và thầy thơ lại gầy gò "run run bưng chậu mực". Sự đối lập thứ nhất cho ta thấy giữa cái ác, nơi tăm tối của nhà ngục cái đẹp vẫn sống, không hề bị tiêu diệt. Trong sự đối lập thứ hai ta thấy một sự chuyển hoá quyền lực. Viên quản ngục nắm trong tay quyền hành hạ, đánh đập Huấn Cao lại trở thành "khúm núm" trước Huấn Cao. Đó phải chăng chính là sức mạnh của cái đẹp, cái thiện đã chiến thắng cái xấu cái ác.
Qua hình tượng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân muốn bày tỏ những quan niệm của mình về cái đẹp. Với Nguyễn Tuân, cái tài phải đi đôi với cái tâm. Cái đẹp và cái thiện không thể tách rời nhau. Đó là một quan niệm thẩm mĩ tiến bộ của tác giả.
-
Vang bóng một thời gồm 11 truyện viết về một thời đã xa, nay chỉ còn vang bóng. Qua tập truyện này, nhà văn Nguyễn Tuân đã bày tỏ sự bất hòa sâu sắc đối với xã hội buổi giao thời cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX ở nước ta và ca ngợi những nhà nho tài hoa không chịu vứt bỏ lương tâm, chạy theo danh lợi, vẫn giữ thiên lương cao đẹp. Một trong những nhân vật tiêu biểu nhất cho tư tưởng của nhà văn Nguyễn Tuân đó chính là nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù. Huấn Cao là một nhân vật được xây dựng với hình tượng có tính cuốn hút mãnh liệt về khí phách, tâm hồn thanh cao và tài hoa hơn người.
Huấn Cao có tài viết chữ, viết thư pháp. Thư pháp (phép viết chữ, nghệ thuật viết chữ Hán) vốn là một thú cao nhã của người xưa, bên cạnh cầm, kì, thi, họa. Các nhà nho thuở xưa viết chữ để bộc lộ cái tâm, cái chí. Viết chữ thành một môn nghệ thuật được gọi là thư pháp. Có người viết chữ, thì có người chơi chữ. Người ta treo chữ đẹp ở những nơi trang trọng trong nhà để tỏ lòng trân trọng. Đó như một thú chơi tao nhã của tầng lớp trên. Huấn Cao là một người nghệ sĩ trong nghệ thuật thư pháp. “Tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp” của ông nổi tiếng khắp một vùng tỉnh Sơn. Ngay cả viên quản ngục của một huyện nhỏ vô danh cũng biết “chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm… Có được chữ ông Huấn Cao mà treo trong nhà là có một báu vật trên đời”. Cho nên, “sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do tay ông Huấn Cao viết”.
Để có được chữ ông Huấn Cao, viên quản ngục không những phải dụng công, phải nhẫn nhục, mà còn phải dũng cảm. Bởi vì biệt đãi Huấn Cao - một kẻ tử tù là việc làm nguy hiểm, có khi phải trả bằng tính mạng của mình. Nhưng chính cái tài hoa hơn người của ông khiến hắn bất chấp tất cả. Ta nhận thấy vẻ đẹp đầu tiên ở nhân vật Huấn Cao chính là vẻ đẹp của con người họa sĩ tài ba.
Không chỉ có tài mà Huấn Cao còn là một người có khí phách hiên ngang ngút trời. Điều đó được thể hiện trong hành động ông đã dám đứng lên chống lại một triều đình đang thối nát, mục ruỗng đầy những rối ren hại dân, hại nước. Khi bị triều đình bắt ông lại dám “bẻ khóa, vượt ngục” để có thể tiếp tục thực hiện những hoài báo, ý chí của mình. Huấn Cao mang tinh thần “uy vũ bất năng khuất” không cúi mình run sợ trước bất kì điều gì dù cho đó cps là gông cùm, xiềng xích, đòn roi hay cường quyền.
Ngược lại ông còn thể hiện thái độ coi thường trước những kẻ coi quyền cậy thế bằng chứng là việc ông không hề run sợ mà buông lời thậm tệ với tên Quản ngục vì nhầm tưởng hắn đến mua chuộc mình. Khí phách thanh cao càng ngời sáng hơn khi ông biết được tin ngày mai mình sẽ bị đưa về kinh xử chém. Lẽ thường, một người đứng trước cái tin ấy, đứng trước cái ngưỡng cái chết cận kề sẽ phải run sợ vô cùng tới mức tưởng như chết ngay rồi. Nhưng không ta lại thấy một ông Huấn rất điềm đạm, thanh thản mà “mỉm cười” bởi “đến cái cảnh chết chém, ông cũng chẳng sợ nữa…”. Có những suy nghĩ, hành vi thật phóng khoáng, Ông Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu thịt của viên quản ngục, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình, dù đang bị giam cầm. Huấn Cao chính là một trang anh hùng nghĩa liệt.
Điểm sáng tiếp theo mà ta dễ dàng nhận thấy ở con người của Huấn Cao đó chính là: Ông là một người có “thiên lương” trong sáng và cao đẹp. Thiên lương đó được thể hiện ở sự tự trọng, coi khinh tiền bạc để bảo vệ cái đẹp. Huấn Cao là một người yêu thích cái đẹp, có tài viết chữ, yêu thích thư pháp nhưng không bao giờ vì vàng bạc, quyền uy mà ép mình cho chữ bao giờ. Ông chỉ cho những người biết yêu, am hiểu và thực sự trân trọng cái đẹp và “tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. Cho nên cả cuộc đời ông chỉ mời viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường dành cho những người bạn thân của mình. Vẻ đẹp thiên lương của Huấn Cao còn thể hiện rõ ở chỗ ông coi trọng những tâm hồn luôn hướng tới cái đẹp. Huấn Cao đã rất cứng cỏi khi nghĩ rằng Quản ngục là kẻ đại diện cho quyền lực phi nghĩa. Hắn là kẻ tàn bạo không hơn không kém.
Nhưng khi biết viên Quản ngục có tấm lòng yêu chuộng cái đẹp đã dùng hết tấm lòng thành hắn có để xin ông chữ thì thái độ của ông khác hẳn. Ông đồng ý cho viên Quản ngục chữ và kèm theo nói những lời chân thành “ Ta cảm cái lòng biệt nhỡn liên tài…Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Điều đó thể hiện được sự vị tha, đầy cảm thông với người khác của ông. Huấn Cao không chỉ yêu và bảo vệ cái đẹp của nghệ thuật, ông còn luôn hướng tới bảo vệ cái đẹp của cuộc sống, của tâm hồn con người. Ông đã dành cho tên viên Quản ngục một lời khuyên rất chân thành, sẵn sàng chia sẻ những lời gan ruột chân thành với viên quản ngục trước khi vào kinh thành thụ án: "Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy quản nên thay chốn đi ở đây thiên lương khó giữ cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi". Đó là sự ứng xử đáng trọng của một nhân cách cao cả.
Nhà văn Nguyễn Tuân đã vô cùng thành công khi xây dựng được hình ảnh nhân vật Huấn Cao. Đọc xong tác phẩm Chữ người tử tù không ai là không yêu mến trước một con người như thế, vừa tài ba khí phách ngút trời mà lại có tấm lòng cao đẹp.
-
Nguyễn Tuân nổi tiếng là một nhà văn tài hoa, giàu cá tính. Ông đã niệm và theo đuổi suốt đời quan niệm "...mà thầy rằng yêu đẹp có nghĩa là quyết tâm bảo vệ đến cùng những gì mình đã nhận là đẹp". Và trong rât nhiều cái đẹp mà ông cảm khái, theo đuổi ấy ta thấy có cái đẹp ngời sáng giữa cảnh lao tù tăm tối, cái đẹp của lụa trắng tinh bay những nét mực, cái đẹp từ sâu thẳm lòng người. Cái đẹp toát ra từ người tử tù Huấn Cao và Chữ người tử tù.
Trong tác phẩm, Huấn Cao là một con người tự ưọng, sống hiên ngang bất khuất, không có sức mạnh quyền thế, bạc vàng có thể khuất phục ông. Những con người chọc trời khuấy nước, đếm trên đầu ngón tay, người ta cũng chẳng còn biết nữa... Một con người khẳng khái như vậy còn sợ gì cường quyền hay tham gì tiền bạc?
Là người chọc trời khuấy nước, riêng một giang sơn không chịu được triều đình phong kiến ngày càng suy thoái, mục rỗng, Huấn Cao chống lại triều đình ấy. Bị gọi là giặc nhưng là vì nghĩa lớn, vì lí tưởng lớn nên điều đó có hề gì. Đến khi bị bắt giam, sắp lên đoạn đầu đài vẫn coi thường: Đến cái chết cũng chẳng sợ nữa.... Huấn Cao có những suy nghĩ, hành vi thật phóng khoáng ông vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong hứng bình sinh, dù đang bị cầm tù.
Dưới con mắt Huấn Cao, bọn cầm quyền chỉ là một lũ tiểu nhân thị oai, nên ông luôn tỏ ra khinh bỉ chúng, dù ở giữa cảnh tàn nhẫn, lừa lọc giữa một đống cặn bã. Sau khi viên quản ngục khép nép hỏi ông có cần gì nữa không, ông trả lời như tát vào đối phương: Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ cần một điều, là ngươi đừng đặt chân vào đây". Đó là cái khí phách, cái tư thế hiên ngang lồng lộng dù khi đang giữa cái nền xám xịt của ngục tù.
\
Là con người chọc trời khuấy nước, hiên ngang bất khuất, không sợ bất cứ cái gì nhưng Huấn Cao lại trọng cái bản chất tốt đẹp của con người. Trong phần người sâu thẳm mà đôi khi vì hoàn cảnh, người ta phái giấu kín, việc ông cho chữ và lời khuyên bảo cuối cùng đối với viên quản ngục thể hiện cái tâm của Huấn Cao. Lời ấy là tiếng lòng, là tâm huyết của ông: "Tôi bảo thực đấy, thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở đã... ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi". Ông yêu cái đẹp và cảm thông với người biết yêu cái đẹp. Huấn Cao hiểu được tấm lòng quản ngục thì sẵn sàng cho chữ, bởi ông cảm là cảm cái bản chất thiên lương.
Huấn Cao là người tài hoa rất mực, bên cạnh cầm kì, thi, họa, ông còn có tài viết đẹp, chữ của ông nức cả một vùng, chữ ông đẹp lắm, vuông lắm. Cái tài hoa ấy chỉ dành riêng cho người tri kỉ: Ồng biết cái tài của mình và không vì nó mà ai ông cũng sẵn sàng cho: "Đời ra cũng mới viết có bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn của ta thôi". Và lần cho chữ cuối cùng của đời ông là một ngoại lệ, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã xảy ra bởi vì cảm với tấm lòng, cho chữ có thể nói là một đoạn rất hay thể hiện tài năng của Nguyễn Tuân miêu tả, dựng cảnh và thể hiện tài năng của nhân vật Huấn Cao.
Cái cao đẹp đối lập với dơ bẩn. Chơi chữ đẹp, viết chữ đẹp là một nét đẹp cao, trang trọng thường diễn ra trong cảnh thanh khiết của thiên nhiên và người. Song ở đây là cả một sự đối lập. Tuy nhiên, đối lập mà không có gì mâu thuẫn cả. Lấn át tất cả cái dơ dáy hôi hám của tù ngục, ánh sáng của đuốc, mùi thơm của mực, màu trắng của lụa, đã tỏa sáng lung linh. Tất cả thể hiện nghĩa sâu sắc: Cái đẹp có thể sản sinh từ nơi tội ác ngự trị, giữa mảnh đất chết bởi một người cũng sắp chết (một tử tù). Lời khuyên của Huấn Cao cho cái đẹp không thể còng sống với cái ác được.
Nhân vật Huấn Cao như nhiều nhân vật chính diện khác trong Vang bóng một thời nhất thiết là con người tài hoa. Ở Huấn Cao, bên cạnh tài hoa, có vẻ khí phách của một người có trách nhiệm đối với thời cuộc. Đó là nét độc của Huấn Cao so với nhân vật khác trong Vang bóng một thời.
Ngôn ngữ văn xuôi điêu luyện, nghệ thuật miêu tả tinh nhạy của Nguyễn Tuân đã toát lên không khí một thời đã qua. Nhân vật Huấn Cao, con người khí phách tài hoa có trách nhiệm cao đốì với đất nước. Nó cũng là sự giải bày nỗi khát khao theo đuổi một lí tưởng cao cả của người thanh niên Nguyễn Tuân khi bước chân vào đời. (Trương Chính)
-
Nguyễn Tuân- một nhà văn nổi tiếng của làng văn học Việt Nam. Ông có những sáng tác xoay quanh những nhân vật lí tưởng về tài năng xuất chúng, về cái đẹp tinh thần như "chiếc ấm đất", "chén trà sương"... và một lần nữa, chúng ta lại bắt gặp chân dung tài hoa trong thiên hạ, đó là Huấn Cao trong tác phẩm "Chữ người tử tù".
Nhà văn Nguyễn Tuân đã lấy nguyên mẫu hình tượng Cao Bá Quát làm nguồn cảm hứng sáng tạo nhân vật Huấn Cao. Họ Cao là một lãnh tụ nông dân chống triều Nguyễn năm 1854. Huấn Cao được lấy từ hình tượng này với tài năng, nhân cách sáng ngời và rất đỗi tài hoa.
Huấn Cao là một con người đại diện cho cái đẹp, từ cái tài viết chữ của một nho sĩ đến cốt cách ngạo nghễ phi thường của một bậc trượng phu , tấm lòng trong sáng của một người biết quý trọng cái tài, cái đẹp. Huấn Cao trước hết là một người có tài viết thư pháp. Chữ viết không chỉ là kí hiệu ngôn ngữ mà còn thể hiện tính cách con người. Cái tài viết chữ của ông được thể hiện qua đoạn đối thoại giữa viên quản ngục và thầy thơ lại. Tài năng của Huấn Cao còn được miêu tả qua lời người dẫn truyện và trong suy nghĩ nhân vật. Chữ của Huấn Cao "đẹp lắm, vuông lắm", nét chữ còn thể hiện khí phách hiên ngang, tung hoành bốn bể. Chữ Huấn Cao đẹp và quý đến nỗi viên quản ngục ao ước suốt đời. Viên quản ngục đến "mất ăn mất ngủ"; không nề hà tính mạng của mình để có được chữ của Huấn Cao, "một vật báu ở trên đời". Chữ là vật báu trên đời thì chắc chắn chủ nhân của nó phải là một người tài năng xuất chúng, phi thường có một không hai, là kết tinh mọi tinh hoa, khí thiêng của trời đất hun đúc lại mà thành. Chữ của Huấn Cao đẹp đến như vậy thì nhân cách của Huấn Cao cũng chẳng kém gì. Ông là con người tài tâm vẹn toàn.
Huấn Cao có cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Ông theo học đạo nho thì đáng lẽ phải thể hiện lòng trung quân một cách mù quáng. Nhưng ông đã không trung quân mà còn chống lại triều đình để giờ đây khép vào tội "đại nghịch", chịu án tử hình. Bởi vì Huấn Cao có tấm lòng nhân ái bao la; ông thương cho nhân dân vô tội nghèo khổ, làm than bị áp bức bóc lột bởi giai cấp thống trị tàn bạo thối nát. Huấn Cao rất căm ghét bọn thống trị và thấu hiểu nỗi thống khổ của người dân "thấp cổ bé họng". Nếu như Huấn Cao phục tùng bọn phong kiến kia thì ông sẽ được hưởng vinh hoa phú quý. Nhưng không, ông Huấn đã lựa chọn con đường khác: con đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội. Cuộc đấu tranh không thành công ông bị bọn chúng bắt. Giờ đây phải sống trong cảnh ngục tối chờ ngày xử chém. Trước khi bị bắt vào ngục, viên quản ngục đã nghe tiếng đồn Huấn Cao rất giỏi võ, ông có tài "bẻ khóa, vượt ngục" chứng tỏ Huấn Cao là một người văn võ toàn tài, quả là một con người hiến có trên đời.
ác giả miêu tả sâu sắc trạng thái tâm lý của Huấn Cao trong những ngày chờ thi hành án. Trong lúc này đây, khi mà người anh hùng "sa cơ lỡ vận" nhưng Huấn Cao vẫn giữ được khí phách hiên ngang, kiên cường. Tuy bị giam cầm về thể xác nhưng ông Huấn vẫn hoàn toàn tự do bằng hành động "dỡ cái gông nặng tám tạ xuống nền đá tảng đánh thuỳnh một cái" và "lãnh đạm" không thèm chấp sự đe dọa của tên lính áp giải. Dưới mắt ông, bọn kia chỉ là "một lũ tiểu nhân thị oai". Cho nên, mặc dù chịu sự giam giữ của bọn chúng nhưng ông vẫn tỏ ra "khinh bạc". Ông đứng đầu gông, ông vẫn mang hình dáng của một vị chủ soái, một vị lãnh đạo. Người anh hùng ấy dù cho thất thế nhưng vẫn giữ được thế lực, uy quyền của mình. Thật đáng khâm phục! Mặc dù ở trong tù, ông vẫn thản nhiên "ăn thịt, uống rượu như một việc vẫn làm trong hứng bình sinh". Huấn Cao hoàn toàn tự do về tinh thần. Khi viên cai ngục hỏi Huấn Cao cần gì thì ông trả lời: "Ngươi hỏi ta cần gì à? Ta chỉ muốn một điều là ngươi đừng bước chân vào đây ".
Cách trả lời ngang tàng, ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường; "đến cái chết chém cũng còn chẳng sợ ...". Ông không thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm. Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình trong xã hội, ông biết đặt vị trí của mình lên trên những loại dơ bẩn "cặn bã" của xã hội. "Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất". Huấn Cao là người có "thiên lương" trong sáng, cao đẹp . Theo ông, chỉ có "thiên lương", bản chất tốt đẹp của con người mới là đáng quý. Thế nhưng khi biết được nỗi lòng của viên quản ngục, Huấn những vui vẻ nhận lời cho chữ mà còn thốt rằng: "Ta cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có sở thích cao quý đến như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ". Huấn Cao cho chữ là một việc rất hiếm bởi vì "tính ông vốn khoảnh. Ta không vì vàng bạc hay uy quyền mà ép cho chữ bao giờ".
Hành động cho chữ viên quản ngục chứng tỏ Huấn Cao là một con người biết quý trọng cái tài, cái đẹp, biết nâng niu những kẻ tầm thường lên ngang hàng với mình. Cảnh "cho chữ" diễn ra thật lạ, quả là cảnh tượng "xưa nay chưa từng có". Kẻ tử tù "cổ đeo gông, chân vướng xiềng" đang "đậm tô từng nét chữ trên vuông lụa bạch trắng tinh" với tư thế ung dung tự tại, Huấn Cao đang dồn hết tinh hoa vào từng nét chữ. Đó là những nét chữ cuối cùng của con người tài hoa ấy. Những nét chữ chứa chan tấm lòng của Huấn Cao và thấm đẫm nước mắt thương cảm của người đọc. Con người tài hoa vô tội kia chỉ mới cho chữ ba lần trong đời đã vội vã ra đi, để lại biết bao tiếc nuối cho người đọc. Qua đó, Nguyễn Tuân cũng gián tiếp lên án xã hội đương thời đã vùi dập tài hoa con người. Và người tù kia bỗng trở nên có quyền uy trước những người đang chịu tránh nhiệm giam giữ mình. Ông Huấn đã khuyên viên quản ngục như một người cha khuyên bảo con: "Tôi bảo thực thầy quản nên về quê ở đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững rồi cũng có ngày nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi".
Theo Huấn Cao, cái đẹp không thể nào ở chung với cái xấu được. Con người chỉ thưởng thức cái đẹp khi có bản chất trong sáng, nhân cách cao thượng mà thôi. Những nét chữ cuối cùng đã cho rồi, những lời nói cuối cùng đã nói rồi. Huấn Cao, người anh hùng tài hoa kia dù đã ra đi mãi mãi nhưng để lại ấn tượng sâu sắ cho những ai đã thấy, đã nghe, đã từng được thưởng thức nét chữ của ông. Sống trên cõi đời này, Huấn Cao đã đứng lên đấu tranh vì lẽ phải; đã xóa tan bóng tối hắc ám của cuộc đời này. Chính vì vậy, hình tượng Huấn Cao đã trở nên bất tử. Huấn Cao sẽ không chết mà bước sang một cõi khác để xua tan bóng tối nơi đó, đem lại hạnh phúc cho mọi người ở mọi nơi.
Ở Huấn Cao ánh lên vẻ đẹp của cái "tài" và cái "tâm". Trong cái "tài" có cái "tâm" và cái "tâm" ở đây chính là nhân cách cao thượng sáng ngời của một con người tài hoa. Cái đẹp luôn song song "tâm" và "tài" thì cái đẹp đó mới trở nên có ý nghĩa thực sự. Xây dựng hình tượng Huấn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân đã thành công trong việc xây dựng nên chân dung nghệ thuật điển hình lí tưởng trong văn học thẩm mĩ. Dù cho Huấn Cao đã đi đến cõi nào chăng nữa thì ông vẫn sẽ mãi trong lòng người đọc thế hệ hôm nay và mai sau.
-
Nguyễn Tuân là một cây bút lớn trong nền văn chương Việt Nam hiện đại. Các tác phẩm của ông có chiều sâu tư tưởng rất lớn với những nhân vật mang phẩm chất phi thường, kể cả là người lao động bình thường. Ông là người đặc biệt yêu thích cái đẹp và những giá trị truyền thống. Nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù là một trong những nhân vật tiêu biểu cho những ý nguyện về cuộc đời và con người của ông.
Truyện miêu tả tài năng và phẩm chất thiên lương cao cả của Huấn Cao. Cái tâm, cái tầm của Huấn Cao cao cả đến mức có thể cảm hóa được cái xấu, cái ác. Qua hình tượng nhân vật Huấn Cao có thể khẳng định về cái tâm, cái tài cần phải song hành, sóng đôi cũng như lời Bác Hồ nói về quan niệm tài và đức không thể tách rời.
Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân dựa vào nhân vật cụ thể ngoài hiện thực là Cao Bá Quát. Cao Bá Quát là một con người thông minh, học giỏi nổi tiếng, rất mực tài hoa, sống dưới triều đại phong kiến thối nát khiến nhân dân đói khổ, lầm than, ông đã đứng lên lãnh đạo phong trào nông dân khởi nghĩa chống lại triều đình. Điều này cho ta thấy được tấm lòng rất trân trọng người tài, trân trọng những người anh hùng đã hy sinh vì nghĩa lớn của Nguyễn Tuân. Qua đó, ta cũng thấy được tấm lòng yêu nước thương dân của Nguyễn Tuân, tấm lòng mà ông dành cho đất nước là rất đáng quý. Trong truyện, Nguyễn Tuân xây dựng nhân vật Huấn Cao là một người anh hùng thất thế, vốn là thủ lĩnh những người “phản nghịch” đứng lên chống lại triều đình, nay bị kết án tử, giam cầm và chờ ngày ra pháp trường xử lý. Huấn Cao là người tử tù chuẩn bị đưa ra pháp trường xử tử.
Huấn Cao là một con người rất tài hoa, văn võ song toàn. Ông là người nổi tiếng có tài viết chữ đẹp, “ chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”, thiên hạ truyền rằng “ có được chữ Huấn Cao mà treo là có một báu vật trên đời”. Huấn Cao là người có khí phách hiên ngang, không khuất phục trước uy quyền bạo lực. Đứng đầu cuộc bạo động khởi nghĩa chống triều đình phong kiến thối nát, là tử tù nhưng rất ung dung, bình thản. Trước hành động giễu cợt của tên lính, ông ngang tàng gỗ gông “ Huấn Cao lạnh lùng chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thanh gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái". Khi viên quản ngục có lời hỏi thăm, Huấn Cao tỏ thái độ ngạo nghễ, khinh bạc, trả lời một cách lạnh lùng, đanh thép: "Ngươi hỏi ta muốn gì ? Ta chỉ muốn một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây “, “đến cái cảnh chết chém, ông còn chẳng sợ nữa là cái trò tiểu nhân oái thị này. “Cái chết ngay cận kề nhưng Huấn Cao vẫn ung dung, bình thản đón nhận, không chút run sợ, không chút sợ hãi.
Ông cũng là người có thiên lương trong sáng, nhân cách cao đẹp. Không tham quyền hám lợi mà bán rẻ giá trị “không vì vàng ngọc hay quyền thế mà bắt mình phải viết câu đối bao giờ”. Ông rất trọng nghĩa khí, vốn khinh bạc nhưng khi biết phẩm chất tốt đẹp và sở thích cao quý của quản ngục thì Huấn Cao đã sẵn sàng cho chữ, đồng thời có chút ân hận, băn khoăn vì "thiếu chút nữa phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ“. Không chỉ giữ gìn, quý trọng thiên lương của mình, Huấn Cao còn thân thành khuyến thiện con người, cho quản ngục những lời khuyên hết sức chân thành, ý nghĩa : “Thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, Huấn Cao là một nhân vật đúng chất nam nhi "đầu đội trời chân đạp đất". Ông vừa là một con người rất mực tài hoa vừa là một con người hiên ngang khí phách, sống với một mục đích, lý tưởng cao đẹp bất chấp cả uy quyền và bạo lực. Ông luôn luôn đặt chữ "tâm" trên chữ "tài" và có quan niệm thống nhất giữa cái đẹp và cái thiện. Cái đẹp và cái thiện phải luôn luôn đi đôi với nhau, gắn bó mật thiết với nhau, không thể tách rời nhau được. Huấn Cao quả là một nhân vật thật lý tưởng với tấm lòng thiên lương cao khiết.
Nguyễn Tuân rất có sự đầu tư khi xây dựng nhân vật Huấn Cao. Bởi Huấn Cao chính là nhân vật tư tưởng của ông. Miêu tả Huấn Cao, ông dần dần phác những nét ý nghĩa về con người và cuộc đời của một nhân vật mang tầm tư tưởng lớn. Cái xấu xa không bao giờ trù dập nổi cái đẹp, cái tài. Huấn Cao trong tù ngục chính là nét vẽ cao khiết nhất về sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa cái cao cả, phàm tục và cái dơ bẩn, thấp hèn mà qua cảnh cho chữ giữa Huấn Cao và viên quản ngục đã thể hiện sâu sắc và rõ nét tinh thần ấy. Đó là biểu tượng cho sự chiến thắng của cái tài, cái tâm trước cái phàm tục, dơ bẩn, của cái khí phách ngang tàng đối với thói quen nô lệ. Đây là lý tưởng thẩm mĩ của nhà văn, là ý nghĩa tư tưởng của hình tượng Huấn Cao với những điều cao đẹp mà nhà văn muốn gửi gắm tấm chân tình của mình.
Huấn Cao là một người tử tù đáng kính. Ông phải chết chỉ vì cái tội yêu nước, thương dân. Tâm sự, tình cảm, tư tưởng của Nguyễn Tuân gửi gắm vào nhân vật này rất nhiều. Đó là những con người tài với chí làm trai mang chí hướng cộng đồng dân tộc, dù có chết cũng chết trong vinh quang. Đó cũng chính là những nỗi niềm thương dân, yêu nước của Nguyễn Tuân được thể hiện một cách thầm kín.
-
Nhà văn Pauxtopxki từng khẳng định: “Nhà văn là người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp. Bước vào thế giới văn chương nghệ thuật là bước vào thế giới của cái đẹp”. Tuy nhiên mỗi nhà văn lại có một lí tưởng riêng. Nếu Thạch Lam đưa người đọc đến với thế giới cái đẹp dịu dàng, êm đềm màu buồn, man mác thì Nguyễn Tuân - người nghệ sĩ tận hiến suốt đời cho cái đẹp lại dẫn ta đến thế giới thanh cao, sang trọng, lịch lãm mà cổ kính. Trong thế giới nghệ thuật độc đáo ấy của Nguyễn Tuân nổi bật lên hình tượng Huấn Cao - nhân vật chính của “Chữ người tử tù”, một nét son chói lọi trong văn nghiệp của Nguyễn Tuân.
Là một người nghệ sĩ coi cái đẹp là một tôn giáo, giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, trước Cách mạng, bất mãn xã hội Tây tàu nhặng xị, Nguyễn Tuân trở về quá khứ kiếm tìm, nâng niu những vẻ đẹp còn vương sót lại. Trong hành trình đi tìm kiếm cái đẹp “Vang bóng một thời”, Nguyễn Tuân chợt phát hiện ra không gì đẹp bằng những con người tài hoa tài tử. Nổi bật trong lớp người tài hoa ấy là danh sĩ Cao Bá Quát, một nhà Nho uyên bác, một nhà thơ lớn của dân tộc, một nhà thư Pháp kiệt xuất. Dựa trên nguyên mẫu về danh sĩ Cao Bá Quát, Nguyễn Tuân đã sáng tạo nên hình tượng Huấn Cao – một nhân vật đẹp và sang nhất trong cuộc đời Nguyễn Tuân. Không chỉ là người nghệ sĩ tài hoa, tài tử, Huấn Cao còn là một đấng anh hùng. Ở Huấn Cao có sự kết hợp tuyệt vời giữa vẻ đẹp của tâm hồn nghệ sĩ và khí phách của trang anh hùng hào kiệt.
Nghệ thuật thư pháp là một bộ môn nghệ thuật cổ xưa. Một nghệ sĩ thư pháp đòi hỏi một tay bút tài hoa điêu luyện, với những nét chữ rồng bay phượng múa, một học vấn uyên thâm, một cốt cách thanh cao. Với những đòi hỏi khắt khe như thế, thật ít nghệ sĩ dám theo đuổi bộ môn nghệ thuật thư pháp cao siêu. Thế mà Huấn Cao dám dấn thân và tận hiến đời mình cho nghệ thuật thư pháp và trở thành người nghệ sĩ tài hoa tột bậc. Huấn Cao có tài viết chữ nhanh, đẹp, vuông. Hơn thế nữa, mỗi con chữ chứa đựng cả hoài bão khát vọng của người nghệ sĩ. Danh tiếng của Huấn Cao lan truyền đến chốn ngục tù khiến cho những kẻ suốt đời tưởng chỉ biết đến đòn roi đánh đập, hành hạ, tra tấn cũng phải ngưỡng mộ, đặc biệt đối với quản ngục. Ngay từ khi đọc vỡ sách thánh hiền, ngục quan đã ấp ủ được treo ở nhà riêng đôi câu đối do tay Huấn Cao viết. Vì ngưỡng mộ tài năng, sùng kính nhân cách của ông Huấn, quản ngục đã có lối ứng xử lạ lùng chưa từng thấy đối với kẻ từ tù. Không chỉ tỏ thái độ kiêng nể kính trọng, ngục quan còn sẵn sàng hi sinh tất cả những gì vốn được coi là quý báu. Có được chữ của ông Huấn, quản ngục vô cùng hạnh phúc, cảm động cung kính vái lạy người tử tù trong dòng nước mắt nghẹn ngào “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Vẫn biết những tác phẩm nghệ thuật chân chính luôn có khả năng thanh lọc tâm hồn, cảm hóa con người nhưng thực sự hiếm có tác phẩm nào có sức cảm hóa mạnh mẽ diệu kì, lạ lùng chưa từng thấy như những con chữ viết của Huấn Cao.
Là người nghệ sĩ tài hoa tột bậc, đồng thời Huấn Cao còn là người anh hùng có khí phách phi thường. Nếu vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ Huấn Cao được miêu tả gián tiếp thì khí phách hiên ngang bất khuất được miêu tả trực tiếp qua hành động, ngôn ngữ. Là một nhà Nho có chí khí, Huấn Cao không chấp nhận cảnh sống cá chậu chim lồng, nhắm mắt làm ngơ trước cảnh đời thối nát để mong vinh thân phì gia. Vì sự công bằng của xã hội, hạnh phúc dân lành, Huấn Cao nổi dậy chống lại triều đình. Sự nghiệp anh hùng không thành, Huấn Cao bị khép vào án tử hình. Trước cái chết cận kề, Huấn Cao không hề hối tiếc hay lo lắng, sợ hãi. Trái lại, Huấn Cao luôn tỏ rõ dũng khí hiên ngang, bất khuất. Bẻ khóa vượt ngục đã trở thành tài của Huấn Cao khiến quản ngục và thầy thơ lại thán phục. Bất cứ lời nói hành động nào của Huấn Cao dường như cũng toát lên khí phách hiên ngang, bất khuất của vị đại trượng phu.
Tuy nhiên, nếu phải chọn một hành động điển hình cho khí phách ấy, nhiều người chọn hành động dỗ gông lúc nhập ngục. Đối mặt với bọn tiêu lại giữ tù, cai tù hống hách, bạo ngược, Huấn Cao không hề khúm núm, sợ sệt như những tù nhân khác. Hành động của Huấn Cao có khác nào một cái tát khinh bỉ vào mặt bọn cai tù cặn bã. Dõi theo hành động, thái độ của Huấn Cao trong nhà giam những ngày cuối cùng, người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Chẳng những Huấn Cao thản nhiên nhận rượu thịt - quà biếu của quản ngục coi đó là việc vẫn là trong hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm. Trước cường quyền không lùi bước, trước cái chết không chịu khuất phục, đó là khí phách anh hùng Huấn Cao. Khi thầy thơ lại ngập ngừng báo tin cho ông biết sáng sớm mai ông phải về kinh lãnh án tử hình, không một phút lo âu, không một giây sợ hãi, Huấn Cao đón nhận cái chết bằng nụ cười. Đó là nụ cười ngông ngạo của người sẵn lòng tin “giữ trinh bạch linh hồn trong bụi bẩn”. Không chỉ là người nghệ sĩ tài hoa, Huấn Cao đúng là trang anh hùng có khí phách phi thường.
Nhà văn vĩ đại V.Hugo đã từng nói: “Trước bộ óc vĩ đại ta phải cúi đầu nhưng trước trái tim vĩ đại ta phải quỳ gối”. Học theo tư tưởng của văn hào Hugo, trước hình tượng Huấn Cao, mỗi người đọc chúng ta ắt phải cúi đầu và quỳ gối. Bởi Huấn Cao không chỉ là một nghệ sĩ tài năng siêu biệt, một đấng anh hùng có khí phách phi thường mà ông còn là hiện thân của nhân cách cao đẹp, thiên lương trong sáng vô ngần. Là một người nghệ sĩ thư pháp tài hoa tột bậc, những con chữ của Huấn Cao là một vật báu đối với bao người. Cả đời, Huấn Cao mới tặng chữ cho ba người. Không mềm lòng trước tiền bạc, quyền uy, trước sau Huấn Cao chỉ trân trọng tình tri âm, tri kỉ. Đến khi hiểu được ước nguyện của quản ngục, Huấn Cao chẳng những cho chữ mà còn mỉm cười mãn nguyện. Quả thật, không hạnh phúc sao được khi giữa thế giới ngục tù, tối tăm, bẩn thỉu ta lại bắt gặp một tấm lòng trong sáng, biết trọng người ngay, biết kính mến khí phách và tài năng. Tuy sẵn lòng cho chữ quản ngục nhưng Huấn Cao vẫn day dứt “Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Ở trên đời này, khi mắc lỗi, hầu hết con người ta tìm cách trốn tránh và đổ lỗi cho người khác, cho hoàn cảnh thế nên hành động ăn năn, hối hận là rất đáng quý chỉ có ở những nhân cách tử tế. Lại day dứt ân hận trước những sai lầm suýt mắc phải, những sai lầm chỉ mình mình biết, mình mình hay, chỉ có ở những nhân cách cao đẹp mới như vậy.
Kết lại truyện “Chữ người tử tù” là cảnh cho chữ - một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Không chỉ vậy, nó còn là bệ phóng hoàn hảo làm nổi hình nổi bật các nhân vật và nổi bật tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Đặc biệt ở cảnh cho chữ, ta thấy tài năng và khí phách của Huấn Cao. Vậy là, bằng tài năng và tâm huyết, Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Huấn Cao, sự hiện thân cho cái đẹp kì diệu cùng hình tượng quản ngục và cảnh cho chữ. Không chỉ “Vang bóng một thời”, mà “Chữ người tử tù” sẽ neo đậu mãi trong tâm hồn người đọc như một dấu son không bao giờ phai.
-
Vườn văn học Việt Nam, đặc biệt là phong trào văn học lãng mạn (1930-1945) toả ngát những bông hoa muôn màu, muôn sắc. Giữa vườn hoa ngàn sắc tía đó nổi lên một bông hoa ngát hương: Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân-tác phẩm viết về một thời đã qua nay chỉ còn vang bóng trong Vang bóng một thời truyện ngắn Chữ người tử tù có một giá trị thiêng liêng, nổi bật. Ai đã từng đọc Chữ người tử tù đều rung động cảm phục, sùng kính trước vẻ đẹp của người anh hùng sa cơ lỡ vận mà hiên ngang, bất khuất, có tài, có tâm, mến mộ nghĩa khí. Đó là Huấn Cao (Huấn Cao), Huấn Cao là kết tinh, là hội tụ phẩm chất của một con người có nhân, dũng, trí. Ông là tập hợp của tất cả những gì tinh khiết nhất, cao đẹp nhất.
Huấn Cao là một hình tượng thẩm mỹ, một nét đẹp trong cuộc sống đời thường, là một người có nhân cách vẹn toàn, vừa có tài văn, tài võ, vừa là người có nghĩa khí. Huấn Cao phảng phất bóng dáng của Cao Bá Quát đã từng sống một cuộc sống tung hoành ngang dọc, là người có tài,có đức, văn hay chữ đẹp, sống trong giai đoạn của Nguyễn triều, dám đứng lên chống lại bọn thực dân phong kiến, bọn cường quyền, đả kích xã hội PK thối nát, bỉ ổi. Phải chăng, Nguyễn Tuân (Nguyễn Tuân) đã mượn Huấn Cao để ca ngợi Cao Bá Quát và mặt khác dựa vào Cao Bá Quát, khái quát lên một hình tượng Huấn Cao mà cái đẹp của tài hòa quyện với cái đẹp của khí phách, tuy chí không thành nhưng vẫn coi thường hiểm nguy gian khổ, coi khinh cái chết. Tư thế của Huấn Cao hiên ngang lồng lộng tỏa sáng trên cái nền đen quánh của tù ngục. Nói đến vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao trước hết phải nhắc đến cái tái. Huấn Cao là một người viết chữ đẹp.
Trong thị hiếu thẩm mỹ của người xưa từ Trung Quốc đến Việt Nam thì viết chữ đẹp là cả một nghệ thuật cao quý và chơi chữ đẹp là biểu hiện của con người có tri thức, một vẻ đẹp hoàn mỹ trong văn hoá truyền thống dân tộc. Nó như một sản phẩm nghệ thuật, như một vật báu mà con người khát khao, thèm muốn. Ngào ra, Huấn Cao còn có tài bẻ khoá vượt ngục coi nhà tù như nơi không người, ra vào như chơi. Điều đó thể hiện một con người khát khao tự do, hoài bão tung hoành luôn đấu tranh cho chính nghĩa, chống lại triều đình PK mục nát. Tất cả những tài năng đó làm thành một Huấn Cao có tầm lớn, đi vào lòng độc giả như một anh hùng, một trượng phu đã vượt lên tất cả cái bình thường nhỏ nhoi của cuộc đời để vẫy vùng để chọc trời khuấy nước. Nhưng trong cái xã hội PK bóc lột người, nhân tài như lá mùa thu ấy thì Huấn Cao hiện lên là một anh hùng thất thế. Nguyễn Du đã từng viết về Từ Hải-một anh hùng thời cổ: Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn, Song vị hùm thiêng Huấn Cao này tuy có sa cơ, lỡ nghiệp nhưng Huấn Cao vẫn kiên cường, bất khuất, vẫn dũng khí. Do đó, người đọc không chỉ nhận ra Huấn Cao là một người có tài mà ông còn là người có dũng khí, hiên ngang trước cường quyền, trước một cái chết treo lơ lửng. Hết mực ca ngợi cái tài của Huấn Cao, đồng thời Nguyễn Tuân cũng hết sức trân trọng cái tâm của Huấn Cao. Bởi Cái tâm kia mới bằng ba chữ tài (Nguyễn Du).
Cái tâm của ông cũng vuông lắm, cao khiết và đầy sức chinh phục như nét chữ của ông vậy. Có lẽ phong cách tức là con người đã được thể hiện rất rõ ở đây. Mặc dù viết chữ Nho đẹp lẽ ra ông phải trung thành với đạo thánh hiền, giữ mình theo lễ nghĩa Nho giáo, trung với vua, một lòng một dạ theo triều đình. Nhưng không! Huấn Cao không chịu vào luồn ra cúi, không chịu sống trong cảnh nhung hoa áo gấm, thà làm giặc triều đình sống theo chính nghĩa mà mình đã vạch ra. Sự nghiệp dang dở, bị bát, bị kết án tử hình nhưng ông vẫn không hề tỏ thái độ run sợ, không mảy may tiếc nuối, hối hận. Huấn Cao - ngôi sao Hôm chính vị ấy - bước vào ngục trong tư thế thật hiên ngang, khí phách ung dung. Trong con mắt của bọ lính ông thật cao thượng, bất khuất, khinh đời. Ngay cả với gông xiềng, với cái án tử hình sắp đến gần, thái độ của ông vẫn ngang tàn, lạnh lùng. Huấn Cao ung dung, lãnh đạm dỗ gông trước mặt bọn lính, không thèm chấp mấy lời đe dọa. Ông bình thản ăn những món ăn do quan ngục biệt đãi, coi như mình có quyền hưởng thụ, ông làm việc theo ý mình, hoàn toàn tự chủ. Ông ngước mắt nhìn lên nhà lao, lên những bộ mặt bất nhân, nham nhở. Cái nhìn hiên ngang đó không run sợ, không căm hờn, oán hận, không van xin, cầu khẩn. Đó là một cái nhìn của kẻ dám làm dám chịu.
Thậm chí ông còn khinh bạc, nặng lời khi chưa rõ ý tốt của quản ngục: Ngươi hỏi ta muốn gì?Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây. Con người khuấy nước chọc trời chẳng biết nể sợ ai. Nếu trong đời thương trừ chỗ tri kỷ, ông ít chịu cho chữ, nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối bao giờ, thì khi sa vào chốn giam cầm thì mấy chén rượu, vài bữa cơm thịt của hai con người vô danh tiểu tốt ở chốn tù ngục bé nhỏ này làm sao lung lay được ông hay vì quyền uy mà làm ông run sợ. Thật đúng là nhân cách lý tưởng mà con người của ngàn năm qua vẫn ao ước. Cái thái độ khinh đời, ngang tàn đó phải chăng làm cho viên quản ngục ngây ngất, kính nể. Huấn Cao đã mang đến chốn lao tù, cho cái địa ngục sống này một ánh sáng kỳ ảo, huyền diệu, lung linh, chói rọi, soi sáng đạo lý làm người. Thiên lương cao đẹp của ông là một vầng hào quang tỏa sáng rực rỡ trên bầu trời đầy u ám của nhà tù.
Huấn Cao - vầng hào quang chói lọi này không những là một người có dũng trí mà còn là một con người có trái tim nhân hậu. Khi biết thiện ý của quản ngục, Huấn Cao đã rất cảm động. Từ đó, ta thấy ông Huấn là người có lòng bao dung, độ lượng, chia sẻ nỗi niềm cùng với hai người bạn bạn mới mà suýt nữa ông đã đánh mất: Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Nào ta biết đâu một người thầy quản đây lại có cái sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa ta đi phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ. Sự biệt đãi bằng vật chất và thái độ ân cần không làm cho trái tim sắt đá kia mềm lòng. Chính cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài và những sở thích cao quý, hướng về văn minh, văn hoá mới cảm hoá được trái tim dường như được đúc bằng thép ấy. Thái độ biệt nhỡn liên tài của Huấn Cao đối với quản ngục không phải sự liên tài sự trả ân đối với người đã đối xử tử tế, biết chơi chữ của mình, mà là sự trân trọng, cảm động trước một nhân cách Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Quản ngục sống giữa bùn nhơ nhớp mà vẫn giữ được thiên lương, biết trọng người tài, kính cái đẹp. Đó đúng là một đóa sen trong bùn.
Ánh hào quang rực rỡ, vẻ đẹp tuyệt diệu toả ra rất rõ ở cảnh Huấn Cao cho chữ. Nó bộc lộ trọn vẹn nhất vẻ đẹp nhân cách Huấn Cao. ở đây vẻ đẹp này toả hương thơm ngát hơn lúc vào hết. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, một cảnh tượng đầy kịch tính diễn ra, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Đó là sự tương phản giữa một bên là một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián với một bên là tấm lụa trắng tinh, căng phẳng và với ánh sáng của bó đuốc tẩm dầu đang cháy rừng rực. Ba đầu người chăm chú trên một tấm lụa bạch nguyên vẹn. Nó là sự trái ngược của sự tàn bạo, đánh đập, tra khảo dã man với ánh sáng của nền văn minh, văn hóa. Đó còn là sự mâu thuẫn giữa bóng tối và ánh sáng, cái xấu và cái đẹp, cái ác và cái thiện, cái chết và cái sống, cái xấu xa đê tiện và cái trong trẻo cao thượng. Ngòi bút dựng cảnh, dựng người của Nguyễn Tuân rất giàu tính tạo hình với trình độ nghệ thuật điêu luyện, sức sảo, gần đạt đến sự hoàn mĩ (Vũ Ngọc Phan).
Dưới ánh sáng của bó đuốc đỏ rực-bó đuốc của trí tuệ, của niềm tin, của hy vọng và trong khung cảnh thật nghiêm trang, thật thiêng liêng này, Huấn Cao dồn hết tâm linh, sinh lực vào từng nét chữ. Ông không mảy may lưu ý gì đến cái xấu xa xa, bẩn thỉu đang tồn tại mà hoàn toàn bị thu hút, quyến rũ vào một sự vật:tấm lụa bạch nguyên vẹn. Đúng thế, ở đây chỉ có cái đẹp, cái cao thượng mới thực sự tồn tại. Chính tấm lụa trắng tinh này mà ông Huấn Cao đang cho ra đời những con chữ tuyệt tác ấy mới thực sự có sức mạnh. Ở đây không còn là một Huấn Cao tử tù nữa. Chỉ còn một Huấn Cao tự do nhất, sống động nhất. Cái giá treo cổ kia cũng không còn nữa mà chỉ có cuộc sống vĩnh hằng về chân lý của cái đẹp. Ngôi sao sáng - Huấn Cao đang phát quan bừng tỉnh cái không gian u tối, phá vỡ cái màn đêm ngự trị ngàn đời ở đây. Huấn Cao đem đến nơi đây một thế giới văn hoá. Vẻ đẹp cao nhân đó đã làm cho viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực. Tuy nhiên, ở nhà ngục này có sự thay bậc đổi ngôi, có sự chuyển hoá vị thế, vị trí xã hội của con người. Nó nói lên một sự thật mà đầy tính lãng mạn. Giờ phút này và tại nơi đây không phải do quản ngục làm chủ. Sức mạnh, quyền lực của cái đẹp và chân lý tồn tại trên đời, thể hiện sức mạnh, quyền uy theo cách riêng của nó.
Nó không khuất phục người ta bằng bạo lực, nó chinh phục người ta bằng tự bản chất của nó. Nó không giày xéo áp đặt con người để bắt người ta phải tuân theo nó, trái lại, nó vực con người ta đứng dậy, tự nguyện đi theo nó để hướng tới cái CHÂN-THIỆN-MỸ trở nên trong sáng và tốt đẹp hơn. Và ở đây cái đẹp đã lên ngôi thay thế cho cái xấu xa, thấp kém, cái đẹp nâng đỡ con người, cứu vớt con người (Đôxtôiepxki). Cái đẹp đăng quan, cái xấu xa đã phải chìm xuống nhường chỗ cho cái đẹp. Cái đẹp đã tồn tại, sẵn sàng và rất cần sự đánh thức cái thiên lương ở mỗi con người. Huấn Cao cho chữ như chuyển giao một nhân cách tự do, chuyển giao cái đẹp đẻ cái đẹp mãi sinh sôi nảy nở, đi vào cõi vĩnh hằng. Hình tượng nhân vật Huấn Cao được khắc họa bằng ngòi bút lãng mạn cứ sừng sững hiên ngang hiện lên như muốn cất bổng lên, phá vỡ chốn lao tù, phá vỡ cái cuộc sống đang tràn ngập màn đêm, ngột ngạt, trì trệ.
Phải chăng đó là quan niệm thẩm mỹ của Huấn Cao hay là của chính Nguyễn Tuân: cái đẹp phải gắn với cái thiện không thể ở chung với cái xấu, cái ác. Sự chân thành, bộc bạch giản dị đó của Huấn Cao đã khiến cho ngục quan cảm động vái người tù một cái và rưng rưng: Kẻ mê muội nỳa xin bái lĩnh. Nói tóm lại, Huấn Cao là một con người tích tụ những phẩm chất tốt đẹp nhất. Tuy bị cầm tù về thể xác nhưng lại tự do về tâm hồn. Hay nói khác đi, Huấn Cao dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân là biểu tượng cho cái đẹp trong hoàn cảnh lịch sử đang đày rẫy những cái xấu xa,tội lỗi, biểu tượng cho Thiên lương cao quý. Con người sống vượt lên những hiện thực tầm thường, tăm tối để tỏa sáng, đẻ vĩnh cửu, để bất diệt, truyền cho người đời phẩm giá làm người, những phẩm giá tiêu biểu cho đạo lý dân tộc.
Dựng lên hình tượng Huấn Cao với vẻ đẹp rực rỡ tráng lệ giữa chốn lao tù ẩm thấp chật chội. Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm cảm phục sâu sắc đối với những người anh hùng xả thân vì nghĩa lớn. Nhà văn đã sử dụng ngòi bút tả thực đầy kịch tính kết hợp với việc khắc hoạ tính cách nhân vật và ngòi bút miêu tả phong cảnh hiện thực lẫn lãng mạn. Có thể nói Chữ người tử tù với bút pháp sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, với ngôn ngữ văn xuôi giàu có và góc cạnh, với vẻ đẹp tuyệt vời của Huấn Cao, tác phẩm xứng đáng là một áng văn chương một thời vang bóng và nó mãi mãi vang bóng trong bạn đọc nhiều thời.
-
Bậc thầy của ngôn ngữ - Nguyễn Tuân trước Cách Mạng là cây bút nổi tiếng của văn học Lãng mạn 1930-1945. Ông đi về ngày xưa cũ để nói cái đời hiện tại. Điều đó phản ánh rõ nét qua trang văn chương của ông. Hình tượng nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn " Chữ người tử tù" thể hiện rõ tài năng của ông.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, Huấn Cao hiện lên là con người tài hoa, nghệ sĩ. Ông có tài viết chữ nhanh và đẹp. Tài đó là tài viết chữ Nho bằng bút lông, mực tàu. Tài đó nâng lên thành thi pháp, nâng người sở hữu tài thành người nghệ sĩ, nâng viết chữ thành sáng tạo cái đẹp, sáng tạo nghệ thuật. Nhờ tài đó mà biến tên tuổi Huấn Cao thành danh , một thanh danh lẫy lừng. Quản Ngục khi nghe thơ lại nhắc đến Huấn Cao đã biết đến Huấn Cao qua lời đồn đại. Huấn Cao xuất hiện ở đoạn đối thoại như xuất hiện trong một màn sướng khói của giai thoại. Chữ Huấn Cao trở thành báu vật khiến Quản ngục khao khát muốn có.
Không chỉ là người nghệ sĩ, Huấn Cao còn là một bậc anh hùng. Lí do khiến Huấn Cao nhập lao chứng tỏ ông là bậc anh hùng khi đứng đầu đội quân chống lại triều đình phong kiến đổ nát. Khi nhập lao, trước lời nói và hành động của lính áp giải, Huấn Cao với hành động "dỗ gong" và thái độ lạnh lung, khinh bạc chứng tỏ một tinh thần khảng khái của một bậc trượng phu không chấp những kẻ nhỏ con. Tại ngục giam, Huấn Cao luôn giữ vững thái độ ung dung, thản nhiên và tự tại.
Khi Quản ngục diện kiến, đứng trước người xét xử cho mình, ông vẫn giữ nguyên thái độ, không sợ sệt. Trả lời Quản ngục bằng thái độ lạnh lung, xua đuổi chứng tỏ khí phách hiên ngang của một bậc anh hùng. Ngày nhận hung tin đưa ra quan trường, trong khi Thơ lại và quản ngục lo lắng, bồn chồn "tái nhợt người" "hớt hải, ngập ngừng" thì trái lại Huấn Cao không một chút lo lắng. Huấn Cao chỉ lặng nghĩ rồi mỉm cười. Một thái độ thản nhiên, điềm tĩnh đến sợ của một đấng quân tử anh hùng. Ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân khắc hoạ sinh động hình tượng Huấn Cao- một anh hùng hiên ngang, khí phách.
Huấn Cao là người anh hùng dũng cảm, là người nghệ sĩ tài hoa và còn là người có thiên lương trong sáng. Khi nghe thơ lại nói ý nguyện của Quản ngục. Huấn Cao đáp "nhất sinh không vì vàng ngọc, quyền thế viết câu đối" , "mới chỉ viết cho ba người bạn thân". Câu trả lời của Huấn Cao chứng tỏ nhân cách cứng cỏi trước uy quyền, tiền bạc. Ông còn cảm lòng biệt nhỡn người tài của Quản ngục.
Hơn vậy còn thấy được tấm lòng trân trọng nghệ thuật, trân trọng cái đẹp của nhân vật. Trong không gian tù túng của ngục tù, dưới ánh sáng leo lét của nến nhưng bừng lên ánh sáng của nghệ thuật, Huấn Cao nói những lời cuối với Quản ngục: "Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng trẻo với những nét chữ vuông vắn tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người. Thoi mực, thầy mua ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?... Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái ghế này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi".
Lời khuyên của Huấn Cao với viên quản ngục chứng tỏ nhân vật không chấp nhận cái đẹp lẫn lộn cùng cái ác, muốn thưởng thức cái đẹp phải chăm lo, giữ gìn cái thiên lương. Lời khuyên chân thành của Huấn Cao khiến nhân vật như trở thành người khai sáng, người đi truyền đạo giáo. Quả thực, Huấn Cao là một con người có thiên lương trong sáng.
Nguyễn Tuân thật tài tình khi đặt Huấn Cao vào tình huống éo le, một cuộc kì ngộ để tôn lên vẻ đẹp của Huấn Cao - người anh hùng nghệ sĩ. Nghệ thuật tương phản đối lập của bút pháp lãng mạn cùng ngôn ngữ trau truốt với nhiều từ Hán Việt xây dựng được hình tượng Huấn Cao đặc biệt, không lẫn với bất kì nhân vật nào cùng thời và sau này.