Top 6 Bài soạn "Một thời đại trong thi ca" của Hoài Thanh lớp 11 hay nhất
"Một thời đại trong thi ca" của Hoài Thanh là tiểu luận mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam, tổng kết một cách sâu sắc phong trào Thơ. Đoạn trích trong chương trình ... xem thêm...văn phổ thông thuộc phần cuối bài tiểu luận nói trên. Tác phẩm đã nêu rõ nội dung cốt yếu của tinh thần Thơ mới: Lần đầu tiên chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó, xuất hiện trong thi ca đồng thời cũng nói lên cái bi kịch ngấm ngầm trong hồn người thanh niên lúc bấy giờ. Nghệ thuật lập luận khoa học, chặt chẽ, thấu đáo, văn phong tinh tế, tài hoa, giàu cảm xúc đã tạo nên thành công của tác phẩm. Mời các bạn đọc tham khảo một số bài soạn "Một thời đại trong thi ca" của Hoài Thanh hay nhất đã được Toplist tổng hợp trong bài viết sau đây.
-
I. Đôi nét về tác giả Hoài Thanh
- Hoài Thanh (1909-1982) tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyên
- Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho yêu nước
- Thời còn đi học, ông từng tham gia phong trào yêu nước và từng bị thực dân Pháp bắt. Ông từng làm Chủ tịch Hội văn hóa cứu quốc ở Huế
- Sau Cách mạng ông hoạt động chủ yếu trong ngành văn hóa- nghệ thuật và từng giữ nhiều chức vụ quan trọng
- Các tác phẩm tiêu biểu: Văn chương và hành động, Thi nhân Việt Nam, Có một nền văn hóa Việt Nam, Nói chuyện thơ kháng chiến,....
- Ông là nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại
II. Đôi nét về tác phẩm Một thời đại trong thi ca (Hoài Thanh)
1. Xuất xứ
- Một thời đại trong thi ca là tiểu luận mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam, tổng kết một cách sâu sắc phong trào Thơ mới
- Đoạn trích thuộc phần cuối bài tiểu luận nói trên
2. Bố cục
- Phần 1 (từ đầu đến đại thể): đặt vấn đề tinh thần Thơ mới.
- Phần 2 (tiếp theo đến băn khoăn riêng): sự phân biệt thơ cũ và Thơ mới; cảm xúc chủ đạo của Thơ mới.
- Phần 3 (còn lại): niềm tin, hi vọng vào sự phát triển của Thơ mới.
3. Giá trị nội dung
- Tác phẩm đã nêu rõ nội dung cốt yếu của tinh thần Thơ mới: Lần đầu tiên chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó, xuất hiện trong thi ca đồng thời cũng nói lên cái bi kịch ngấm ngầm trong hồn người thanh niên lúc bấy giờ
4. Giá trị nghệ thuật
- Nghệ thuật lập luận khoa học, chặt chẽ, thấu đáo, văn phong tinh tế, tài hoa, giàu cảm xúcIII. Trả lời câu hỏi
Câu 1 (trang 104 sgk ngữ văn 11 tập 2):
Cái khó trong việc tìm ra tinh thần của thơ mới:
- Ranh giới giữa thơ cũ và thơ mới không phải rạch ròi dễ nhận ra
- Cách nhận diện:
+ Không thể căn cứ vào những bài thơ dở, thời đại nào chả có mà phải so sánh với bà hay
+ Và những cái mới và cái cũ vẫn tiếp nối cho qua lại nên mới phải so sánh trên đại thế
Câu 2 (trang 104 sgk ngữ văn 11 tập 2):
Điều cốt lõi mà nhà thơ đưa đến cho thi đàn Việt Nam lúc giờ “chữ tôi” với một quan niệm trước đó chưa từng có:
+ Quan niệm cá nhân (sự tự ý thức về bản thân, khát vọng được thành thực)
+ Đồng thời “chữ tôi” cũng nói lên bi kịch ngấm ngầm trong hồn người thanh niên lúc bấy giờ
Câu 3 (trang 104 sgk ngữ văn 11 tập 2):
“Cái tôi” đem đến cho tâm hồn thi sĩ nỗi buồn lạnh, bơ vơ, muốn thoát nhưng không thoát được. Đó là những thi nhân đang sống trong cuộc đời tù túng, mong mỏi của thân phận mất nước
- Tương phản giữa khát vọng thoát thân và thực tế tù túng, bế tắc để thấy bi kịch của thi sĩ lãng mạn
- Thoát lên trên- đồng tiền đã khép
- Phiêu lưu trong trường tình, tình yêu không bền
- Điên cuồng – Điên cuồng rồi tỉnh
- Đắm say- Say đắm vẫn bơ vơ
Câu 4 (trang 104 sgk ngữ văn 11 tập 2):
Các nhà thơ bấy giờ giải tỏa bi kịch đời mình bằng cách:
- Gửi bi kịch ấy vào trong tiếng Việt
- Dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt, lấy tinh thần nòi giống, tìm dĩ vãng chỗ dựa tinh thần
- Giọng điệu thiết tha, hi vọng thoát khỏi bi kịch của thi sĩ lãng mạn
Câu 5 (trang 104 sgk ngữ văn 11 tập 2):
Nghệ thuật của bài tiểu luận thể hiện qua đoạn trích
- Đặt vấn đề rõ, gọn
- Dẫn dắt vấn đề khoa học, khéo léo và dễ hiểu, đảm bảo liền mạch trong hệ thống luận điểm
- Câu văn nghị luận giàu chất thơ, có sức gợi cảm xúc, gây hứng thú cho người đọc
- Nghệ thuật lí luận chặt chẽ, thấy đáo khoa học
Khi phân tích đặc điểm thơ mới, tác giả luôn phân tích “cái tôi” trong nhiều quan hệ với “cái ta” để tìm ra điểm giống và khác nhau
+ Khi tìm cái mới của thơ mới tác giả nhìn vẫn đề trong mối quan hệ với thời đại, với tâm lí người thi nhân đương thời thấu đáo, sâu sắc
+ Lí luận gắn bó chặt chẽ giữa những nhận định, luận điểm có tính khái quát những ví dụ cụ thể, đa dạng, giàu sức thuyết phục
+ Có cái nhìn thấu đáo về “cái tôi”, “cái ta” có sự so sánh giữa các câu thơ và nhà thơ cũ, mới trong diễn biến lịch sử
LUYỆN TẬP
Bài 1 (trang 104 sgk ngữ văn 11 tập 2):
Chữ “tôi” và chữ “ta” trong thơ mới và thơ cũ có sự khác nhau:
- Chữ “tôi” và chữ “ta” thể hiện ý thức bản thân mình. Chữ “tôi” mang ý nghĩa tuyệt đối của nó
- Chữ “ta” trong thơ cũ là cá nhân ý thức gắn với cộng đồng, đoàn thể
Bài 2 (trang 104 sgk ngữ văn 11 tập 2):
Lòng yêu nước của các nhà thơ mới biểu hiện ở sự sáng tạo trong thơ ca
- Họ không chỉ sáng tạo ra những giá trị văn hóa mà còn trực tiếp tham gia vào phong trào cách mạng
- Nhà thơ mới yêu tiếng Việt, họ làm tiếng Việt giàu đẹp hơn
- Lòng yêu nước thể hiện trong sự trân trọng giá trị tinh thần, truyền thống của dân tộc
Bài 3 (trang 104 sgk ngữ văn 11 tập 2):
Người đọc hiểu thêm về tâm hồn của các nhà thơ lãng mạn:
- Tấm lòng ưu ái của nhà thơ mới, thế hệ thanh niên đương thời
- Họ những trí thức tiểu tư sản chưa tìm thấy con đường cách mạng hoặc chưa thực sự dũng cảm dấn thân vào con đường cách mạng đầy chông gai
- Tấm lòng sâu nặng của họ gửi vào tình yêu tiếng Việt, tình yêu văn hóa dân tộc, gửi vào sự thương nhớ thầm kín với hồn quê đất nước
→ Những biểu hiện của lớp thanh niên trí thức, tiểu tư sản đương thời đáng quý, đáng trân trọng
-
I. Vài nét về tác giả, tác phẩm
1.Tác giả
- Hoài Thanh (1909 – 1982) tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyên. Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo yêu nước ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.
- Hoài Thanh là nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Ông là tác giả của nhiều công trình có giá trị:Văn chương và hành động (1936), Thi nhân Việt Nam (1942), Có một nền văn hóa Việt Nam (1946), Quyền sống của con người trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du (1949), Nói chuyện thơ kháng chiến (1950), Phê bình và tiểu luận (3 tập- 1960, 1965, 1971).
2. Tác phẩm
Một thời đại trong thi ca là tiểu luận mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam, tổng kết một cách sâu sắc phong trào Thơ mới. Đoạn trích thuộc phần cuối của bài tiểu luận.
Bố cục: 3 phần
+ Phần 1 (đầu tới “nhìn vào đại thể”): Nguyên tắc xác định tinh thần Thơ mới
+ Phần 2 (tiếp đến “Huy Cận”): tinh thần Thơ mới - sự khẳng định và vận động của “cái tôi”
+ Phần 3 (đoạn cuối): Hướng giải quyết bi kịch
II. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1 (trang 104 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Cái khó trong việc tìm ra tinh thần Thơ mới:
- Thơ thời nào cũng có cái hay, cái dở, cái kiệt xuất, cái tầm thường, lố lăng,
- “Tinh thần Thơ mới” khó là không phải ranh giới thơ mới- thơ cũ rạch ròi, dễ nhận ra. Vì “Âu là ta cũng đành phải nhận ra rằng tời đất hông phải dựng lên cùng một lần với thế hệ chúng ta. Hôm nay đã phôi thai từ hôm qua và trong cái mới vẫn còn rớt lại ít nhiều cái cũ...”
Từ đó, tác giả đã nêu ra cách nhận diện:
- “Khốn nỗi, cái tầm thường, cái lố lăng chẳng phải riêng thời nào và muốn hiểu tinh thần thơ cho đúng đắn, phải sánh bài hai với bài hay vậy”.
- “... muốn rõ đặc sắc mỗi thời phải nhìn vào đại thể”.
Câu 2 (trang 104 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Điều cốt lõi mà thơ mới đưa đến cho thi đàn Việt Nam bấy giờ là “cái tôi”. Theo nhà thơ:
+ “Cứ đại thể thì tất cả tinh thần thời xưa – hay thơ cũ – và thời nay – hay thơ mới – có thể gồm lại trong hai chữ tôi và ta. Ngày trước là thời chữ ta, bây giờ là thời chữ tôi”.
+ Bản chất chữ tôi: Quan niệm con người cá nhân trong sự giải phóng, trỗi dậy, bùng nổ của ý thức cá nhân (Cái nghĩa tuyệt đối của nó).
+ Hành trình: chập chững, lạ lẫm – được quen biết – được cho là đáng thương và tội nghiệp.
Câu 3 (trang 104 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Chữ “tôi, với cái nghĩa của nó” lại “đáng thương” và... “tội nghiệp”:
- Đó là bi kịch của cái tôi nhỏ bé tội nghiệp, “mất hết cốt cách hiên ngang ngày trước”.
- Bi kịch của cái tôi: mất bề rộng (không tìm được tiếng nói chung với cuộc đời), chỉ còn bề sâu (trốn chạy vào ý thức cá nhân).
- Bi kịch của “cái tôi” bàng hoàng và thiếu một lòng tin đầy đủ, không còn có thể nương tựa vào một cái gì bất di bất dịch như cái ta thuở trước.
=> Những bi kịch có tính chất xã hội: Thơ mới nói lên cái bi kịch đang diễn ngấm ngầm phản chiếu tâm lí một thế hệ, những thất vọng, hi vọng của cả thế hệ.
Câu 4 (trang 104 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Các nhà thơ lãng mạn cũng như “người thanh niên” bấy giờ đã giải tỏa bi kịch đời mình bằng cách: gửi cả vào tiếng Việt. “Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ buồn vui với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt”. Vì họ nghĩ “Tiếng Việt là tấm lụa xứng đã hứng vong hồn những thế hệ qua” và họ tin vào lời nói triết lí “Truyện Kiều còn tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”.
Câu 5 (trang 104 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Một thời đại trong thi ca là một tiểu luận phức tạp, phong phú nhưng người đọc vẫn thấy dễ hiểu và hấp dẫn bởi:
- Cách đặt vấn đề và giải quyết vấ đề một cách thuyết phục, khoa học.
- Những lập luận của bài viết luôn có sức thuyết phục cao vì nó gắn chặt chẽ với những nhận định, những luận điểm có tính khái quát với những ví dụ có tính minh chứng cụ thể, đa dạng, giàu sức thuyết phục.
- Bài viết có tầm nhìn bao quát về “cái tôi”, “cái ta”, có sự so sánh giữa các câu thơ và nhà thơ cũ, mới trong diễn biến lịch sử chứ không nhìn nhận vấn đề một cách đơn giản một chiều.
Luyện tập
Câu 1 (trang 104 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Sự khác biệt cơ bản giữa chữ tôi thơ mới và chữ ta thơ cũ:
- Thơ văn xưa thường nói lên những cảm xúc chung của cả lớp người, loại người, kiểu người. “Cái tôi” nếu có cũng chỉ ẩn mình dưới “cái ta” chung ấy.
- “Cái tôi” trong Thơ mới, nó đã tách bạch, đứng riêng rẽ một mình, bộc bạch những gì sâu kín nhất ngay trong bản thể của nó.
Câu 2 (trang 104 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Lòng yêu nước của các nhà thơ mới đã gửi lòng yêu nước thương nòi của mình vào tiếng Việt “đã hứng vong hồn dân tộc những thế hệ qua”. Họ tin rằng vận mệnh dân tộc gắn với vận mệnh tiếng Việt đồng thời qua thơ mình, họ muốn làm cho tiếng Việt giàu đẹp hơn.
Câu 3 (trang 104 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Qua bài tiểu luận, chúng ta thấy được tấm lòng ưu ái của các nhà thơ mới và thế hệ thanh niên đương thời. Họ là những thi nhân đang sống trong tâm trạng mòn mỏi, tù túng của thân phận mất nước. Họ chưa tìm ra phương hướng, mục tiêu để đứng lên giành lại độc lập cho dân tộc. Bởi vậy, tấm lòng sâu nặng với non sông đành gửi vào trong tình yêu tiếng Việt.
-
1. Tác giả
- Tên khai sinh Nguyễn Đức Nguyên: 15/7/1909 – 14/3/1982.
- Xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, sớm tham gia phong trào yêu nước. Ông viết văn từ những năm ngoài 20 tuổi.
- Nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại.
- Tác phẩm sáng giá nhất: Thi nhân Việt Nam(1942).
- Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật 2000.
2. Tác phẩm
Tiểu luận nghiên cứu phê bình phong trào thơ mới: Một thời đại trong thi ca.
- Đặt ở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam.
- Đoạn trích thuộc phần cuối bài tiểu luận.3. Tìm hiểu bài
Câu 1 (trang104 SGK Ngữ văn 11 tập 2)
- Cái khó trong việc tìm ra tinh thần thơ mới là ranh giới giữa thơ cũ và thơ mới không phải rạch ròi dễ nhận ra.
- Tác giả đề nghị phương pháp nhận diện thơ mới: Phương pháp so sánh đối chiếu
+ So sánh bài hay với bài hay.
+ Phải "nhìn vào đại thể"
Câu 2 (trang 104 SGK Ngữ văn 11 tập 2)
* Điều cốt lõi mà thơ mới đưa đến cho thi đàn Việt Nam:
- ″chữ tôi” với một quan niệm cá nhân, một quan niệm chưa từng có từ trước đó. Trước đây ″chữ tôi” phải ẩn mình sau chữ ta, giờ đây nó được thể hiện theo nghĩa tuyệt đối của nó.
- ″chữ tôi” cũng nói lên bi kịch trong hồn người thanh niên lúc bấy giờ.
- Họ đi tìm lối thoát bằng cách gửi cả tình yêu vào tiếng Việt.
Câu 3 (trang 104 SGK Ngữ văn 11 tập 2)
* Cái tôi đáng thương và đáng tội nghiệp vì :
- Mất cốt cách hiên ngang : không có khí phách ngang tàng như Lí Bạch, không có lòng tự trọng khinh cảnh cơ hàn như Nguyễn Công Trứ.
- Rên rỉ, khổ sở, thảm hại.
- Thiếu một lòng tin đầy đủ vào thực tại, tìm cách thoát li thực tại nhưng lại rơi vào bi kịch.
Câu 4 (trang 104 SGK Ngữ văn 11 tập 2)
Bi kịch của người thanh niên thời ấy : Cô đơn, buồn chán, tìm cách thoát li thực tại vì thiếu lòng tin vào thực tại nhưng cuối cùng vẫn rơi vào bế tắc. Cái tôi bi kịch này “đại biểu đầy đủ nhất cho thời đại” nên nó vừa có ý nghĩa văn chương vừa có ý nghĩa xã hội.
Câu 5 (trang 104 SGK Ngữ văn 11 tập 2)
* Một thời đại trong thi ca là một tiểu luận phức tạp, phong phú nhưng người đọc vẫn thấy dễ hiểu và hấp dẫn bởi:
- Biện pháp nghệ thuật hấp dẫn, linh hoạt:
- Tính khoa học.
+ Hệ thống luận điểm chuẩn xác, sâu sắc.
+ Dẫn chứng chọn lọc, lập luận chặt chẽ đầy sức thuyết phục.
+ Sử dụng biện pháp đối chiếu, so sánh đạt hiệu quả cao.
+ Nhìn nhận đánh giá vấn đề ở tầm sâu rộng, nhiều mặt, biện chứng và khách quan.
+ Cách dẫn dắt vấn đề tự nhiên, linh hoạt, độc đáo, chuyển ý khéo léo tạo sự tiếp nối.
- Tính nghệ thuật
+ Ngôn ngữ độc đáo, đặc sắc, dung dị, dễ hiểu mà vẫn súc tích, có giá trị biểu cảm cao.
+ Lời văn tình cảm, giãi bày chia sẻ, đồng cảm, có nhiều hình ảnh gợi cảm, gợi hình, gợi liên tưởng: “Đời chúng ta…cùng Huy Cận
+ Tình cảm chân thành, nồng nhiệt.
+ Giọng văn nghị luận phê bình nhưng không khô khan mà dịu dàng, hấp dẫn, có sự trong sáng, tha thiết, cảm thông, thấm đượm tình người.
LUYỆN TẬP
Câu 1 (trang 104 SGK Ngữ văn 11 tập 2)
- Chữ tôi: nghĩa tuyệt đối
+ Không có cá nhân chỉ có đoàn thể, lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc của cá nhân chìm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả.
+ Không tự xưng hoặc ẩn mình sau chữ ta.
- Chữ ta trong thơ cũ là cá nhân ý thức gắn với cộng đồng, đoàn thể (lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình).
+ Quan niệm cá nhân, gắn liền với cá nhân, cá thể.
+ Đi theo chữ anh, chữ bác, chữ ông đã thấy chướng. Huống chi bây giờ nó đến một mình.
+ Chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó, xuất hiện.
Câu 2 (trang 104 SGK Ngữ văn 11 tập 2)
* Lòng yêu nước của các nhà thơ mới được thể hiện ở:
- Bằng cách gửi cả vào tiếng Việt: “họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt”
- Vì tiếng Việt là tiền đề của tâm hồn và bề dày lịch sử văn hóa dân tộc
- Trân trọng tinh thần giống nòi, tâm trạng những vẻ đẹp của quá khứ dân tộc.
Câu 3 (trang 104 SGK Ngữ văn 11 tập 2)
- Cái “Tôi” của các nhà thơ mới “đáng thương” và “tội nghiệp” vì nó đã đem đến cho tâm hồn họ nỗi buồn lạnh, bơ vơ, muốn thoát khỏi nhưng không được. Bởi họ là những thi nhân sống trong cuộc đời mong mỏi, tù túng của thân phận mất nước, mang trong mình cái cô đơn bé nhỏ.
- Các nhà thơ mới, thế hệ thanh niên thời ấy đã thể hiện tình yêu quê hương đất nước thầm kín. Tất cả tình yêu thương ấy được họ dồn cả vào tình yêu tiếng Việt.
Bố cục
Bố cục: 3 phần
- Phần 1 (từ đầu đến đại thể): đặt vấn đề tinh thần thơ mới.
- Phần 2 (tiếp theo đến băn khoăn riêng): sự phân biệt thơ cũ và thơ mới; cảm xúc chủ đạo của thơ mới.
- Phần 3 (còn lại): niềm tin, hi vọng vào sự phát triển của thơ mới.
Nội dung chính
Một thời đại trong thi ca đã nêu rõ nội dung cốt yếu của "tinh thần thơ mới": Lần đầu tiên "chữ tôi, với cái nghĩa tuyệt đối của nó", xuất hiện trong thi ca đồng thời cũng nói lên "cái bi kịch ngấm ngầm trong hồn người thanh niên" hồi bấy giờ.
-
I - KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG
1. Hoài Thanh (1909 - 1982) tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyên. Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo yêu nước, thuộc huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Trước Cách mạng, Hoài Thanh từng tham gia phong trào yêu nước và bị bắt.
Hoài Thanh viết văn từ năm mới ngoài 20 tuổi. Ông hoạt động chủ yếu trong ngành văn hoá - nghệ thuật và từng giữ nhiều chức vụ quan trọng về văn nghệ. Hoài Thanh là nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Thi nhân Việt Nam.
2. Một thời đại trong thi ca là tiểu luận mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam, tổng kết một cách sâu sắc phong trào Thơ mới.
II - HƯỚNG DẪN TÌM HIỂU BÀI
Câu 1. Trong bài viết, theo tác giả, cái khó trong việc tìm ra tinh thần thơ mới là:
- Thơ thời nào cũng có cái hay, cái dở; cái kiệt xuất, cái tầm thường, lố lăng. Bởi thế mà "Giá trong thơ cũ chỉ có những trần ngôn sáo ngữ, những bài thơ chúc tụng, những bài thơ vịnh hết cái này đến cái nọ, mà các nhà thơ mới lại chỉ làm những bài kiệt tác thì cũng tiện cho ta biết mấy”. Theo tác giả, chính sự xáo trộn ấy đã khiến cho việc chọn được bài để so sánh, để cho thật hiểu cái "tinh thần của thơ mới" là không phải dễ.
- Nguyên nhân thứ hai khiến cho việc tìm hiểu cái "tinh thần thơ mới" khó là không phải ranh giới thơ mới - thơ cũ rạch ròi, dễ nhận ra. Vì "Âu là ta đành phải nhận rằng trời đất không phải dựng lên cùng một lần với thế hệ chúng ta. Hôm nay đã phôi thai từ hôm qua và trong cái mới vẫn còn rớt lại ít nhiều cái cũ. Các thời đại vẫn liên tiếp cùng nhau...".
Từ những khó khăn nêu trên, tác giả đã nêu ra những cách nhận diện sau:
- "Khốn nỗi; cái tầm thường, cái lố lăng chẳng phải của riêng một thời nào và muốn hiểu tinh thần thơ cho đúng đắn, phải sánh bài hay với bài hay vậy."
- "... muốn rõ đặc sắc mỗi thời phải nhìn vào đại thể”.
Câu 2. Theo tác giả, điều "cốt lõi" làm nên cái "tinh thần thơ mới", điều mà thơ mới đưa đến cho thi đàn Việt Nam lúc bấy giờ là "cái tôi". Nhà phê bình giải thích:
- "Cứ đại thể thì tất cả tinh thần thời xưa - hay thơ cũ - và thời nay - hay thơ mới - có thể gồm lại trong hai chữ tôi và ta. Ngày trước là thời chữ ta, bây giờ là thời chữ tôi".
- Chữ tôi trước đây, nếu có, thì cũng phải ẩn mình sau chữ ta - một chữ có thể chỉ chung nhiều người: "Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân. Chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc của cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả. Cũng có những bậc kì tài xuất đầu lộ diện. Thảng hoặc họ cũng ghi hình ảnh họ trong văn thơ. Và thảng hoặc trong văn thơ họ cũng dùng đến chữ tôi để nói chuyện với người khác. Song dầu táo bạo đến đâu họ cũng không một lần nào dám dùng chữ tôi để nói chuyện với mình, hay - thì cũng thế - với tất cả mọi người"... "Họ phải cầu cứu đoàn thể để trốn cô đơn. Chẳng trách gì tác phẩm họ vừa ra đời, đoàn thể đã dành làm của chung, lắm khi cũng chẳng thèm ghi tên của họ".
- Chữ tôi bây giờ là chữ tôi theo cái nghĩa tuyệt đối của nó. Nó mang theo "một quan ụiệm chưa từng thấy ở xứ này: quan niệm cá nhân". Nó "xuất hiện giữa thi đàn Việt Nam, bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu. Nó cứ luôn luôn đi theo những chữ anh, chữ bác, chữ ông đã thấy chướng. Huống bây giờ nó đến một mình!".
Câu 3. Tác giả đã lí giải "chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó" đến với thi đàn một cách bất ngờ, "Nhưng, ngày một ngày hai, nó mất dần cái vẻ bỡ ngỡ. Nó được vô số người quen. Người ta lại còn thấy nó đáng thương. Mà thật nó tội nghiệp quá!". Sở dĩ có điều lạ lẫm ấy là vì:
- "Cái tôi" bây giờ không còn cái cốt cách hiên ngang ngày trước như cái khí phách ngang tàng của Lí Bạch, cái tự trọng trước cơ hàn của Nguyễn Công Trứ. "Cái tôi" ngày nay rên rỉ, khổ sở, thảm hại, phiêu lưu trong trường tình, thoát lên tiên, điên cuồng, đắm say, bơ vơ, ngẩn ngơ buồn, bàng hoàng mất lòng tin: "Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận, cả trời thực, trời mộng vẫn nao nao theo hồn ta. Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế. Cùng lòng tự tôn, ta mất luôn cả cái bình yên thời trước".
- Nói chung, thơ mới nói lên cái bi kịch đang diễn ra ngấm ngầm dưới những phù hiệu dễ dãi trong hồn người thanh niên: "Thời trước, dầu bị oan khuất như Cao Bá Nhạ, dầu bị khinh bỏ như cô phụ trên bến Tầm Dương, vẫn còn có thể nương tựa vào một cái gì không di dịch. Ngày nay lớp thành kiến phủ trên linh hồn đã tiêu tan cùng lớp hoa hoè phủ trên thi tứ. Phương Tây đã giao trả hồn ta lại cho ta. Nhưng ta bàng hoàng vì nhìn vào đó ta thấy thiếu một điều, một điều cần hơn trăm nghìn điều khác: một lòng tin đầy đủ".
Câu 4. Rơi vào bi kịch, các thi sĩ lãng mạn cũng như "người thanh niên" bấy giờ đã giải quyết những bi kịch đời mình bằng cách gửi cả vào tiếng Việt: "Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt". Vì họ nghĩ: Tiếng Việt "là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua" và vì họ tin vào lời nói triết lí: "Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn". Họ tin rằng tinh thần nòi giống cũng như các thể thơ xưa có biến thiên nhưng không sao tiêu diệt được, vì phải "tìm về dĩ vãng để vin vào những gì bất diệt đủ đảm bảo cho ngày mai".
Câu 5. Một thời đại trong thi ca là một tiểu luận phức tạp, phong phú nhưng chúng ta vẫn thấy dễ hiểu và hấp dẫn bởi: Khi đặt vấn đề tìm đặc sắc của thơ mới, tác giả nói ngay cái khó của vấn đề. Cái khó là cái mới và cái cũ lại thường gặp ở ngay trong các nhà thơ cũ và mới. Nhà thơ xưa vẫn có thể có những cái mới, ngược lại nhà thơ nay cũng có thể còn giữ những cái xa xưa. Cái cũ và cái mới cũng lại thường vẫn liên tiếp nhau qua các thời đại. Cách nhìn như vậy là khách quan, biện chứng và có tính khoa học.
Từ cách nhìn đó, tác giả nêu cách giải quyết bài toán một cách thuyết phục là không nên so sánh từng bài một mà phải so sánh trên đại thể. Khi phân tích đặc điểm của thơ mới, tác giả cũng luôn phân tích "cái tôi" trong nhiều quan hệ để làm nổi rõ bản chất của "cái tôi":
- Đặt "cái tôi" trong quan hệ với "cái ta" để tìm xem những chỗ giống nhau và khác nhau.
- Đặc biệt là khi tìm cái mới của thơ mới và của các nhà thơ mới, tác giả nhìn vấn đề trong mối quan hệ với thời đại, với tâm lí người thanh niên đương thời để phân tích sâu sắc cái "đáng thương", đáng "tội nghiệp", cái "bi kịch" ở họ. Đây là một điểm đáng chú ý về phương pháp luận khoa học của tác giả và là nét đặc sắc về tính khoa học của bài tiểu luận.
Những lập luận của bài viết luôn có sức thuyết phục cao vì nó có sự gắn bó chặt chẽ giữa những nhận định, những luận điểm có tính khái quát với những ví dụ có tính minh chứng cụ thể, đa dạng, giàu sức thuyết phục.
Bài viết có một tầm nhìn bao quát về "cái tôi", "cái ta", có sự so sánh giữa các câu thơ và nhà thơ cũ, mới trong diễn biến lịch sử chứ không nhìn nhận vấn đề một cách tĩnh tại, đơn giản một chiều.
Bài viết có nhiều đoạn có tính khái quát cao, như đoạn: "Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận". Đoạn văn đã khái quát về sự bế tắc của "cái tôi" và bản sắc phong cách riêng của từng tác giả thơ mới. Mỗi nhà thơ chỉ được khái quát trong mấy từ nhưng cách viết rất giàu hình ảnh, rất mềm mại, uyển chuyển vì thế mà nó có sức khêu gợi cảm xúc cũng như hứng thú ở người đọc.
III - HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP
Câu 1. Có thể thấy sự khác biệt cơ bản giữa "cái tôi" thơ mới và "cái ta" thơ cũ là ở chỗ thơ văn xưa thường nói lên những suy tư, những cảm xúc chung của cả lớp người, loại người, kiểu người. "Cái tôi" nếu có cũng nấp dưới bóng "cái ta" chung ấy. Đến "cái tôi" trong thơ mới, nó đã đứng một mình. Nó đã tự bộc bạch những gì sâu kín nhất ngay bên trong bản thể của nó.
Câu 2. Trong hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ, có nhiều cách để biểu lộ lòng yêu nước: có thể là tích cực tham gia phong trào cách mạng yêu nước, đem máu xương ra giành độc lập. Không làm được như vậy, các nhà thơ mới đành gửi lòng yêu nước thương nòi vào tình yêu tiếng Việt, "đã hứng vong hồn dân tộc những thế hệ qua". Vì họ tin rằng vận mệnh dân tộc gắn với vận mệnh tiếng Việt, tinh thần giống nòi cũng như các thể thơ không sao bị tiêu diệt. Và họ vin vào những gì bất diệt để đảm bảo cho ngày mai.
Giọng văn của tác giả khi nói về các nhà thơ là giọng của người trong cuộc giãi bày, đồng cảm, chia sẻ. Đọc văn mà cảm nhận được tấm lòng của người viết. Tác giả dùng chữ ta để nói về cái chung trong đó có mình. Chữ ta được lặp lại nhiều lần. Trong đoạn cuối, để nói lên lòng yêu nước của các nhà thơ mới, tác giả đã dùng những từ, những hình ảnh thấm đượm tình cảm như: "gửi cả", "yêu vô cùng", "chia sẻ vui buồn với cha ông", "dồn tình yêu quê hương", "hứng vong hồn...", "chưa bao giờ như bây giờ họ hiểu...", "chưa bao giờ như bây giờ họ cảm...", "chưa bao giờ như bây giờ họ thấy cần...".
Câu 3. Qua tiểu luận, người đọc có thể thấy được tấm lòng ưu ái của các nhà thơ mới và thế hệ thanh niên đương thời. Họ là những trí thức tiểu tư sản chưa tìm thấy con đường cách mạng hoặc giả cũng chưa dũng cảm dấn thân vào con đường đấu tranh vũ trang đầy máu lửa và chông gai ấy. Vì thế, tấm lòng sâu nặng với non sông đành gửi vào trong tình yêu tiếng Việt, tình yêu văn hoá dân tộc, gửi vào những tâm sự nhớ thương thầm kín đối với cái hồn quê đất nước. Trong hoàn cảnh xã hội đương thời, những biểu hiện đó của các nhà thơ mới và các thanh niên trí thức tiểu tư sản đương thời cũng là đáng quý, đáng trân trọng.
-
A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM
1. Tác giả
Hoài Thanh: (1909-1982) tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyện. Xuất thân trong một gia đình nhà nho yêu nước.
Quê quán: xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.
Cuộc đời và sự nghiệp:
Viết văn từ những năm 30 của thế kỉ XX. Tháng 8 năm 1945, tham gia khởi nghĩa và làm Chủ tịch Hội Văn hóa cứu quốc ở Huế.
Sau cách mạng tháng 8, tham gia ngành văn hóa-nghệ thuật và từng giữ nhiều chức vụ quan trọng: Tổng thư kí Hội văn hóa cứu quốc, Vụ trưởng Vụ Nghệ thuật,...
Là nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại.
Các công trình có giá trị như: Văn chương và hành động, Thi nhân Việt Nam, Nói chuyện thơ kháng chiến,...2.Tác phẩm
"Một thời đại trong thơ ca" là tiểu luận mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam, tổng kết một cách sâu sắc phong trào thơ mới. Đoạn trích trong sgk là phần cuối của bài tiểu luận nói trên. Tác phẩm đã nêu rõ những nội dung cốt yếu của tinh thần thơ mới đó là "cái tôi" cá nhân, và chữ "ta" rộng lớn.
Tác phẩm được viết năm 1941 và xuất bản thành sách năm 1943, qua tác phẩm đã là, rõ lên những điểm nổi bật của phong trào thơ mới, những cá nhân có đóng góp tích cực cho phong trào này.B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI
Câu 1: Trang 104 sgk ngữ văn 11 tập 2
Theo tác giả, cái khó trong việc tìm ra tinh thần của thơ mới là gì? Và tác giả đã nêu ra cách nhận diện như thế nào?
Bài làm:
Cái khó trong việc tìm ra tinh thần thơ mới là ranh giới giữa thơ cũ và thơ mới không phải rạch ròi dễ nhận ra và Cả thơ mới và thơ cũ đều có cái hay, cái dở
Các nhận diện:
Lấy bài hay so với bài hay để thấy được đặc điểm, tư tưởng của thời đại
Nhìn vào đại thể: nghiên cứu trên diện rộng, số lượng nhiều để thấy được sự khái quátCâu 2: Trang 104 sgk ngữ văn 11 tập 2
Điều cốt lõi mà thơ mới đưa đến cho thi đàn Việt Nam bấy giờ là gì?
Bài làm:
Điều cốt lõi mà nhà thơ mới đưa đến cho thi đàn Việt Nam lúc giờ là "chữ tôi" với một quan niệm trước đó chưa từng có: quan niệm cá nhân (sự tự ý thức về bản thân, khát vọng được thành thực).
Đồng thời cũng cho ta thấy được sự vận động của "chữ tôi" và cũng nói lên bi kịch trong hồn người thanh niên lúc bấy giờ.Câu 3: Trang 104 sgk ngữ văn 11 tập 2
Phân tích vì sao tác giả nói :"chữ tôi, với cái nghĩa tuyệt đối của nó" lại "đáng thương" và ... "tội nghiệp".
Bài làm:
Tác giả nói "cái tôi" vừa đáng thương và tội nghiệp bởi vì:
Vì "cái tôi" đã đem đến cho tâm hồn họ nỗi buồn, bơ vơ, muốn thoát nhưng không được.
Họ là những thi nhân đang sống trong cuộc đời mong mỏi, tù túng của thân phận mất nước, mang trong mình "cái tôi" cô đơn, bé nhỏ nên họ thật đáng thương.
Tương phản giữa khát vọng thoát thân và thực tế tù túng, bế tắc để thấy bi kịch của thi sĩ lãng mạn.Câu 4: trang 104 sgk Ngữ Văn 11 tập hai
Các nhà thơ lãng mạn cũng như "người thanh niên" bấy giờ đã giải tỏa bi kịch của đời mình bằng cách nào?
Bài làm:
Các nhà thơ lãng mạn cũng như "người thanh niên" bấy giờ đã giải tỏa bi kịch của đời mình bằng cách
Gửi tình yêu vào tiếng Việt
Tìm vào dĩ vãng, vin vào những thứ bất diệt
Đó là cách mà những con người ấy thể hiện tình yêu nước một cách thầm kín trước một thời đại xã hội rối ren, hiện thực thì tăm tối, phũ phàng, vùi dập cuộc sống và khát vọng của con người.Câu 5: trang 104 sgk Ngữ Văn 11 tập hai
Một thời đại trong thi ca là một tiểu luận phức tạp, phong phú nhưng vì sao người đọc vẫn thấy dễ hiểu và hấp dẫn? (Chú ý cách đặt vấn đề, dẫn dắt vấn đề, lời văn giàu hình ảnh và chất thơ...)
Bài làm:
Một thời đại trong thi ca là một tiểu luận phức tạp, phong phú nhưng vì sao người đọc vẫn thấy dễ hiểu và hấp dẫn vì:
Cách đặt vấn đề rất ngắn gọn, trực tiếp, không vòng vo khiến người đọc nhận định rõ ràng ngay từ đầu về nội dung của bài tiểu luận
Cách dẫn dắt vấn đề của tác giả rất tự nhiên: đi từ yêu cầu của thời đại và thực tế đời sống, đem cái tôi - cái ta trong thơ mới và thơ cũ ra để so sánh khiến người đọc nhìn nhận rõ ràng
Ngôn ngữ được sử dụng trong bài tiểu luận rất dễ hiểu, quen thuộc, giàu sức gợi và chất thơ
Luận điểm khoa học, chính xác, mới mẻ; kết cấu và triển khai hệ thống luận điểm, nghệ thuật lập luận rất chặt chẽ, logic.Luyện tập
Bài tập 1: trang 104 sgk Ngữ Văn 11 tập hai
Theo quan niệm của Hoài Thanh, chữ tôi và chữ ta trong thơ mới và thơ cũ có gì khác nhau?
Bài làm:
Theo quan niệm của Hoài Thanh, chữ tôi và chữ ta trong thơ mới và thơ cũ rất khác nhau
Cái tôi
- Tư tưởng cá nhân
- Xuất hiện sớm nhưng không được coi trọng
- Nay đã giành được vị trí xứng đáng
Cái ta- Xuất hiện từ xưa, giữ vai trò quan trọng, cốt lõi
- Nay chưa mất hẳn, chỉ tạm lắng xuống- Tư tưởng quốc gia, gia đình, cộng đồng
Bài tập 2: Trang 104 sgk Ngữ Văn 11 tập hai
Lòng yêu nước của các nhà thơ mới đã được biểu lộ như thế nào?
Bài làm:
Lòng yêu nước của các nhà thơ mới biểu hiện ở sự thiết tha với những giá trị, sự nỗi lực sáng tạo ra những giá trị văn hóa. Các nhà thơ mới yêu tiếng Việt; qua thơ mình, họ muốn làm cho tiếng Việt giàu đẹp hơn. Lòng yêu nước của họ còn thể hiện ở sự trân trọng tinh thần giống nòi, tâm trạng những vẻ đẹp của quá khứ dân tộc. Đặc biệt, họ tìm về quá khứ với những giá trị bất diệt và vin vào đó như một cách trốn tránh thực tại khốn cùng, tăm tối của xã hội đương thời.Bài tập 3: trang 104 sgk Ngữ Văn 11 tập hai
Qua bài tiểu luận, anh (Chị) hiểu thêm gì về tâm hồn của các nhà thơ lãng mạn và thanh niên đương thời?
Bài làm:
Qua bài tiểu luận Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh, chúng ta có thêm hiểu biết về tâm hồn các nhà thơ lãng mạn và thế hệ thanh niên đương thời. Họ là những con người nhanh nhạy khi tiếp thu cái mới và tạo ra một "cái tôi" hoàn toàn khác với "cái ta" trong thơ xưa. "Cái tôi" mang theo quan niệm của cá nhân con người, đề cao con người với những khát vọng rất đỗi đời thường, nhân văn. Đó là khao khát được cách tân, được tìm tòi và sáng tạo của những nhà thơ chân chính cũng như thế hệ thanh niên đương thời. Không chỉ vậy, họ còn là những con người yêu nước, dù không được bộc lộ một cách trực tiếp mà chỉ là gián tiếp qua các họ nâng niu, trân trọng tiếng Việt; qua cách họ tìm về với những giá trị cốt lõi, trường tồn trong văn hóa bản sắc, truyền thống của người Việt. Tất cả những điều ấy khiến chúng ta hiểu được rằng, dù thời đại của "cái ta" đã lắng xuống, thời đại của "cái tôi" đang lên ngôi, song dù thế nào, những nhà thơ, những người thanh niên ấy vẫn giữ trọn trong trái tim mình một dải đất chữ S hàng nghìn năm văn hiến.Phần tham khảo mở rộng
Câu 1: Giá trị nội dung và nghệ thuật trong " Một thời đại trong thi ca "
Bài làm:
1. Giá trị nội dung
Tác phẩm đã nêu rõ nội dung cốt yếu của tinh thần Thơ mới: Lần đầu tiên chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó, xuất hiện trong thi ca đồng thời cũng nói lên cái bi kịch ngấm ngầm trong hồn người thanh niên lúc bấy giờ.
Đoạn trích là phần cuối của bài tiểu luận với lập luận chặt chẽ khoa học và một phong cách nghệ thuật tài hoa, tác giả đã thể hiện rõ đặc trưng tinh thần của thơ Mới là cái tôi cá nhân và số phận đầy bi kịch của nó.
2. Giá trị nghệ thuật
Nghệ thuật lập luận khoa học
Chặt chẽ, thấu đáo, văn phong tinh tế, tài hoa, giàu cảm xúc
Cách viết linh hoạt, uyển chuyển, giàu hình ảnh, so sánh gợi nhiều liên tưởng, có sức hấp dẫn mạnh mẽ
Dẫn chứng tiêu biểu, chọn lọc, phân tích tinh tế
Giọng văn trong sáng, thiết tha, cảm thông thấm đượm tình người -
KIẾN THỨC TRỌNG TÂM
Giá trị nội dung:
Đoạn trích “Một thời đại trong thi ca” chỉ ra được nội dung cốt lõi của tinh thần thơ mới: Cái tôi và nói lên cái bi kịch ngấm ngầm trong hồn người thanh niên hồi bấy giờ. Đồng thời, đánh giá được thơ mới trong cả ý nghĩa văn chương và xã hội.
Giá trị nghệ thuật:
Đoạn trích kết hợp hài hòa giữa tính khoa học và tính văn chương nghệ thuật. Luận điểm khoa học chính xác, mới mẻ. Kết cấu và triển khai hệ thống luận điểm cũng như nghệ thuật lập luận rất chặt chẽ, logic. Các biện pháp nghệ thuật được sử dụng một cách khéo léo, tài tình có khả năng khơi gợi và tạo sức cuốn hút lớn.
HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI CÂU HỎI
Câu 1: SGK – 104
Cái khó trong việc tìm ra tinh thần thơ mới là ranh giới giữa thơ cũ và thơ mới không phải rạch ròi dễ nhận ra và Cả thơ mới và thơ cũ đều có cái hay, cái dở.
Các nhận diện:
Lấy bài hay so với bài hay để thấy được đặc điểm, tư tưởng của thời đại
Nhìn vào đại thể: nghiên cứu trên diện rộng, số lượng nhiều để thấy được sự khái quát.
Câu 2: SGK – 104
Điều cốt lõi mà nhà thơ mới đưa đến cho thi đàn Việt Nam lúc bấy giờ là tinh thần Thơ mới, là chữ “tôi”:
Cái khác ở chữ “tôi” và chữ “ta”: ngày trước là thời chữ “ta”, bây giờ là thời chữ “tôi”.
Chữ “tôi” trước đây nếu có thì cũng phải ẩn mình sau chữ “ta”. Chữ “tôi” bây giờ là chữ “tôi” theo ý nghĩa tuyệt đối của nó. Đồng thời, chữ “tôi” cũng nói lên bi kịch ngấm ngầm trong hồn người thanh niên lúc bấy giờ.
Câu 3: SGK – 104
Tác giả đã lí giải "chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó" đến với thi đàn một cách bất ngờ, "Nhưng, ngày một ngày hai, nó mất dần cái vẻ bỡ ngỡ. Nó được vô số người quen. Người ta lại còn thấy nó đáng thương. Mà thật nó tội nghiệp quá!". Sở dĩ có điều lạ lẫm ấy là vì:
Vì "cái tôi" đã đem đến cho tâm hồn họ nỗi buồn, bơ vơ, muốn thoát nhưng không được.
"Cái tôi" bây giờ không còn cái cốt cách hiên ngang ngày trước như cái khí phách ngang tàng của Lí Bạch, cái tự trọng trước cơ hàn của Nguyễn Cống Trứ.
"Cái tôi" ngày nay rên rỉ, khổ sở, thảm hại, phiêu lưu trong trường tình, thoát lên tiên, điên cuồng, đắm say, bơ vơ, ngẩn ngơ buồn, bàng hoàng mất lòng tin: "Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận. Cả trời thực, trời mộng vẫn nao nao theo hồn ta". "Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế. Cùng lòng tự tôn, ta mất luôn cả cái bình yên thời trước".
Câu 4: SGK – 104
Rơi vào bi kịch, các thi sĩ lãng mạn cũng như "người thanh niên" bấy giờ đã giải quyết những bi kịch đời mình bằng cách gửi cả vào tiếng Việt: "Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông.
- Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt". Vì họ nghĩ: "Tiếng Việt là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua" và vì họ tin vào lời nói triết lí "Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn". Họ tin rằng tinh thần nòi giống cũng như các thể thơ xưa có biến thiên nhưng không sao tiêu diệt được, vì phải "tìm về dĩ vãng để vin vào những gì bất diệt đủ đảm bảo cho ngày mai".
Câu 5: SGK – 104
Một thời đại trong thi ca là một tiểu luận phức tạp, phong phú nhưng vì sao người đọc vẫn thấy dễ hiểu và hấp dẫn vì:
Cách đặt vấn đề rất ngắn gọn, trực tiếp, không vòng vo khiến người đọc nhận định rõ ràng ngay từ đầu về nội dung của bài tiểu luận.
Cách dẫn dắt vấn đề của tác giả rất tự nhiên: đi từ yêu cầu của thời đại và thực tế đời sống, đem cái tôi - cái ta trong thơ mới và thơ cũ ra để so sánh khiến người đọc nhìn nhận rõ ràng.
Ngôn ngữ được sử dụng trong bài tiểu luận rất dễ hiểu, quen thuộc, giàu sức gợi và chất thơ.
Luận điểm khoa học, chính xác, mới mẻ; kết cấu và triển khai hệ thống luận điểm, nghệ thuật lập luận rất chặt chẽ, logic.
LUYỆN TẬP
Bài 1: SGK – 104
Theo quan niệm của Hoài Thanh, chữ tôi và chữ ta trong thơ mới và thơ cũ rất khác nhau:
Cái tôi
Tư tưởng cá nhân
Xuất hiện sớm nhưng không được coi trọng
Nay đã giành được vị trí xứng đáng
Cái ta
Tư tưởng quốc gia, gia đình, cộng đồng
Xuất hiện từ xưa, giữ vai trò quan trọng, cốt lõi
Nay chưa mất hẳn, chỉ tạm lắng xuống
Bài 2: SGK – 104
Lòng yêu nước của các nhà thơ mới biểu hiện ở sự thiết tha với những giá trị, sự nỗi lực sáng tạo ra những giá trị văn hóa. Các nhà thơ mới yêu tiếng Việt; qua thơ mình, họ muốn làm cho tiếng Việt giàu đẹp hơn. Lòng yêu nước của họ còn thể hiện ở sự trân trọng tinh thần giống nòi, tâm trạng những vẻ đẹp của quá khứ dân tộc. Đặc biệt, họ tìm về quá khứ với những giá trị bất diệt và vin vào đó như một cách trốn tránh thực tại khốn cùng, tăm tối của xã hội đương thời.
Bài 3: SGK – 104
Qua tiểu luận, người đọc có thể thấy được tấm lòng ưu ái của các nhà thơ mới và thế hệ thanh niên đương thời. Họ là những trí thức tiểu tư sản chưa tìm thấy con đường cách mạng hoặc giả cũng chưa dũng cảm dấn thân vào con đường đấu tranh vũ trang đầy máu lửa và chông gai ấy. Vì thế, tấm lòng sâu nặng với non sông đành gửi vào trong tình yêu tiếng Việt, tinh yêu văn hoá dân tộc, gửi vào những tâm sự nhớ thương thầm kín đối với cái hồn quê đất nước. Trong hoàn cảnh xã hội đương thời, những biểu hiện đó của các nhà thơ mới và các thanh niên trí thức tiểu tư sản đương thời cũng là đáng quý, đáng trân trọng.