Top 6 Bài soạn "Lưu biệt khi xuất dương" của Phan Bội Châu lớp 11 hay nhất
Bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" của Phan Bội Châu được sáng tác vào năm 1905 trước lúc tác giả sang Nhật Bản tìm một con đường cứu nước mới, ông làm bài thơ ... xem thêm...này để giã từ bè bạn, đồng chí. Bài thơ khắc họa vẻ đẹp lãng mạn, hào hùng của nhà chí sĩ cách mạng những năm đầu thế kỉ XX, với tư tưởng mới mẻ táo bạo, bầu nhiệt huyết sôi nổi và khát vọng cháy bỏng trong buổi đầu ra đi tìm đường cứu nước. Mời các bạn tham khảo một số bài soạn mà Toplist đã tổng hợp trong bài viết sau để thấy rõ hơn nội dung đó.
-
Tác giả
- Phan Bội Châu (1867 – 1940) tên thuở nhỏ là Phan Văn San, biệt hiệu chính là Sào Nam, quê ở làng Đan Nhiễm, nay thuộc thị trấn Nam Đàn, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
- Ông là một nhà yêu nước, nhà cách mạng, nhà văn lớn. Phan Bội Châu để lại một kho tàng thơ văn đồ sộ.
- Những tác phẩm chính: Việt Nam vong quốc sử (1905), Hải ngoại huyết thư (1906), Ngục trung thư (1914), Trùng Quang tâm sử (viết trong thời kì lưu vong ở nước ngoài)...
Tác phẩm
Năm 1905, trước lúc lên đường sang Nhật Bản, ông làm bài thơ Lưu biệt khi xuất dương để từ giã bạn bè, đồng chí.
Bố cục: 4 phần
+ Hai câu đề: Quan niệm về chí làm trai
+ Hai câu thực: Khẳng định ý thức trách nhiệm của cá nhân trước thời cuộc
+ Hai câu luận: Quan niệm về nguyên tắc hành xử mới trước vận mệnh đất nước
+ Hai câu kết: Tư thế, khát vọng buổi lên đường
Đọc hiểu văn bản
Câu 1 (trang 5 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh lịch sử có ý nghĩa: Phong trào Cần Vương chống Pháp thất bại, báo hiệu sự bế tắc của con đường cứu nước theo tư tưởng phong kiến do các sĩ phu lãnh đạo. Tình hình chính trị đen tối. Trong bối cảnh đó, một số nhà Nho – trong đó có Phan Bội Châu đã nuôi ý tưởng đi tìm cho mình một con đường cứu nước mới theo lối dân chủ Tư sản đầu tiên ở nước ta, và ông đã hướng đến Nhật Bản, hay cũng chính là hướng về một chân trời mới đầy hi vọng và ước mơ.
Năm 1905, Phan Bội Châu sáng tác bài thơ này sau khi quyết định lên đường sang Nhật Bản.
Câu 2 (trang 5 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Tư duy mới mẻ, táo bạo và khát vọng hành động của nhà chiến sĩ cách mạng trong buổi ra đi tìm đường cứu nước được biểu lộ:
- Quan niệm về chí làm trai và tư thế, tầm vóc của con người trong vũ trụ được thể hiện qua hai câu đầu:
Sinh vi nam tử yếu hi kì
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.
Tác giả nêu lên quan niệm mới mẻ: là đấng nam nhi phải sống cho ra sống, mong muốn làm nên điều kì lạ “yếu hi kì” tức là phải sống phi thường, dám xoay chuyển được càn khôn.
→ Câu thơ thể hiện một thế đẹp về chí nam nhi phải tin tưởng ở tài năng của mình.
- Hai câu thực nói về ý thức trách nhiệm cá nhân trước thời cuộc:
Ư bách niên trung tu hữu ngã
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy
“Tu hữu ngã”: phải có trong cuộc đời → Ý thức trách nhiệm của cái tôi trước thời cuộc, không chỉ là trách nhiệm trước hiện tại mà còn là trách nhiệm trước lịch sử của dân tộc “thiên tài hậu” (nghìn năm sau).
→ Đó là ý thức sâu sắc thể hiện vai trò cá nhân trong lịch sử sẵn sàng gánh vác mọi trách nhiệm mà lịch sử giao phó.
- Hai câu luận là thái độ quyết liệt trước tình cảnh đất nước và những tín điều xưa cũ:
Giang Sơn tử hĩ sinh đồ nhuế
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si
+ Tác giả nêu lên tình cảnh của đất nước “non sông đã chết” và đưa ý thức vinh nhục gắn với sự tồn vong của đất nước, của dân tộc.
+ Đề xuất tư tưởng mới mẻ, táo bạo về nền học vấn cũ: “hiền thánh còn đâu học cũng hoài”.
=→ Bộc lộ khí phách ngang tàng, táo bạo, quyết liệt của một nhà cách mạng tiên phong: đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết.
- Khát vọng hành động và tư thế buổi lên đường được thể hiện trong hai câu thơ cuối:
Nguyện trục trường phong Đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi
+ Hình ảnh: Trường phong (ngọn gió dài); Thiên trường bạch lãng (ngàn lớp sóng bạc).
→ Hình tượng kì vĩ.
+ Tư thế: Nhất tề phi (cùng bay lên)
=→ Hình ảnh đầy lãng mạn nhưng cũng rất hào hùng, đưa nhân vật sánh ngang tầm vũ trụ. Đồng thời thể hiện khát vọng lên đường của nhân vật trữ tình sẵn sàng vượt mọi hiểm nguy, gian nan thử thách để tìm con đường cứu nước cho dân tộc.
Câu 3 (trang 5 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
So sánh nguyên tác với bản dịch trong câu 6 và câu 8 chưa lột tả được hết ý thơ:
- Câu 6 dịch “học cũng hoài” chỉ nêu ý phủ nhận, còn phiên âm “có đọc sách cũng ngu thôi” vừa phủ nhận vừa nêu được cái khí phách ngang tàng, táo bạo, dứt khoát.
- Câu 8: bản dịch Muôn trùng sông biển tiễn ra khơi → êm ả, bình thường vẫn chưa lột tả được sự phi thường của con người so với nguyên tác: Ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên
→ Bức tranh mà con người là trung tâm vút bay cùng muôn ngàn sóng gió giữa biển khơi. Đây là một hình ảnh đẹp, kì vĩ lớn lao.
Câu 4 (trang 5 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Những yếu tố tạo nên sự lôi cuốn của bài thơ:
- Khát vọng sống hào hùng, mãnh liệt.
- Tư thế con người kì vĩ, sánh ngang tầm vũ trụ.
- Khát vọng yêu nước cháy bỏng.
- Tư tưởng đổi mới tiến bộ, táo bạo, đi tiên phong cho thời đại → mở ra hướng đi mới cho phong trào giải phóng dân tộc.
Luyện tập
(trang 5 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2): Viết một đoạn văn ...
Cảm nhận về nghệ thuật trong hai câu cuối của bài thơ cần chú ý:
+ Hình ảnh kì vĩ lớn lao: Trường phong (ngọn gió dài); Thiên trường bạch lãng (ngàn lớp sóng bạc)
+ Tư thế của con người: Nhất tề phi (cùng bay lên)
=→ Hình ảnh đầy lãng mạn nhưng cũng rất hào hùng, đưa nhận vật sánh ngang tầm vũ trụ. Đồng thời thể hiện khát vọng lên đường của nhân vật trữ tình sẵn sàng vượt mọi hiểm nguy, gian nan thử thách để tìm con đường cứu nước cho dân tộc.
-
I. Đôi nét về tác giả Phan Bội Châu
- Phan Bội Châu (1867-1940), tên thuở nhỏ là Phan Văn San, biệt hiệu chính Sào Nam
- Là nhà nho đầu tiên nuôi ý tưởng đi tìm một con đường cứu nước mới. Ông học hành thi cử không phải để làm quan mà là để trang bị vốn hiểu biết, tạo uy tín chuẩn bị cơ sở cho hoạt động Cách mạng
- Phan Bội Châu là lãnh tụ các phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX.
- Các tác phẩm chính: Việt Nam vong quốc sử, Hải ngoại huyết thư, Ngục trung thư, Trùng Quang tâm sử, Phan Sào Nam văn tập, Phan Bội Châu niên biểu,....
- Phong cách nghệ thuật: văn chương là vũ khí để tuyên truyền cổ động, thơ văn ông đã làm rung động biết bao con tim yêu nước
II. Đôi nét về tác phẩm Lưu biệt khi xuất dương (Phan Bội Châu)
1. Hoàn cảnh sáng tác
- Bài thơ được sáng tác vào năm 1905 trước lúc tác giả sang Nhật Bản tìm một con đường cứu nước mới, ông làm bài thơ này để giã từ bè bạn, đồng chí
2. Bố cục
- Phần 1 (4 câu đầu): Quan niệm mới về chí làm trai, cùng ý thức của cái tôi đầy trách nhiệm.
- Phần 2 (còn lại): Ý thức được nỗi nhục mất nước, sự lỗi thời của nền học vấn cũ, đồng thời thể hiện khát vọng hăm hở, dấn thân trên hành trình cứu nước.
3. Giá trị nội dung
- Bài thơ khắc họa vẻ đẹp lãng mạn, hào hùng của nhà chí sĩ cách mạng những năm đầu thế kỉ XX, với tư tưởng mới mẻ táo bạo, bầu nhiệt huyết sôi nổi và khát vọng cháy bỏng trong buổi đầu ra đi tìm đường cứu nước
4. Giá trị nghệ thuật
- Giọng thơ tâm huyết có sức lay động mạnh mẽ, chất lãng mạn toát ra từ nhiệt huyết cách mạng sôi nổi của nhà thơ
III. Trả lời câu hỏiCâu 1:
Vào những năm cuối thế kỉ XIX, tình hình chính trị hết sức đen tối: chủ quyền đất nước mất, phong trào Cần Vương thất bại
+ Chế độ phong kiến thất bại, kéo theo sự sụp đổ của hệ tư tưởng lỗi thời
- Ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ, tư sản từ nước ngoài tới Việt Nam qua con đường Trung Hoa, Nhật Bản, và Pháp
Vì thế các nhà nho yêu nước muốn thay đổi vận mệnh dân tộc
Câu 2
- Quan niệm về chí làm trai, tư thế, tầm vóc con người trong vũ trụ
+ Nam nhi phải lập công danh, làm chuyện đại sự, dám mưu đồ việc lớn
- Ý thức trách nhiệm cá nhân trước thời cuộc:
+ Quan niệm phong kiến cho rằng tạo hóa sinh ra con người và chi phối số phận con người nên có tư tưởng thoái thác cho số mệnh trời định đoạt
+ Điểm mới mẻ, táo bạo trong tư tưởng Phan Bội Châu là sự chủ động xoay chuyển thời thế.
- Con người dám đối mặt với vũ trụ tự khẳng định mình, tự vượt lên cái mộng công danh thường gắn liền với hai chữ hiếu, trung
- Tác giả ôm khát vọng thay đổi xoay chuyển càn khôn, không chịu khuất phục trước số phận, hoàn cảnh
- Tác giả cho rằng chí làm trai gắn chặt với hoàn cảnh thực tế của nước nhà, vinh nhục gắn với sự tồn vong của dân tộc
- Ông đối diện với nền học vấn cũ để nhận thức chân lí: sách vở thánh hiền không giúp được trong buổi nước mất nhà tan
- Nhân vật trữ tình thể hiện được khí phách ngang tàng, táo bạo, quyết liệt của nhà cách mạng đi tiên phong cho thời đại mới
- Khát vọng lên đường của nhân vật trữ tình hết sức lớn lao: bể Đông, cánh buồm, muôn trùng sóng bạc, con người được chắp thêm cánh vượt qua thực tại tăm tối
- Hình ảnh đẹp giàu chất sử thi, con người hăm hở tự tin đầy quyết tâm
Câu 3
Cách dịch trong câu 6 và 8 chưa diễn tả hết sự xuất thần trong thơ của Phan Bội Châu
Câu 6:
- nguyên tác “ Nguyện trục trường phong Đông hải khứ”- Mong muốn theo đuổi ngọn gió dài đi qua biển Đông, không được chú trọng đến ý thơ
- Nhà thơ ý thức được những gian khó, nhưng khao khát vượt qua (con người đuổi theo ngon gió dài đi qua biển Đông). Vũ trụ bao la ngàn đợt sóng bạc.
- Câu thơ số 6 làm mất đi đôi chút sự mạnh mẽ, can trường của nhân vật trữ tình
Câu 8:
Nguyên tác “Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi” - ngàn đợt sóng bạc cùng nhau bay lên
Câu thơ làm mất đi sự kì vĩ, lớn lao của không gian cũng hình ảnh “nhất tề phi” lãng mạn, hùng tráng
Câu 4:
Yếu tố tạo nên sự lôi cuốn mạnh mẽ của bài thơ:
- Khát vọng thay đổi vận mệnh đất nước
- Tư thế kì vĩ, lớn lao, sánh ngang tầm vóc vũ trụ của con người
- Khí phách ngang tàng, dám đương đầu với thử thách
- Giọng thơ tâm huyết, sâu lắng, sục sôi, hào hùng
LUYỆN TẬP
Hai câu thơ cuối trong bài Lưu biệt khi xuất dương diễn tả hình ảnh kì vĩ lớn lao, khắc họa được tầm vóc kì vĩ, phi thường của chủ thể trữ tình. Tác giả là nhà nho tiên tiến sớm tiếp cận với tư tưởng tiến bộ thông qua Tân thư.Ông hiểu rất rõ sự thất thế, mục ruỗng của xã hội nen đã tìm cho mình một hướng đi riêng nhằm giải phóng dân tộc. Hai câu thơ cuối bài đã nêu bật hình ảnh người chí sĩ yêu nước vượt “muôn trùng sóng bạc” ở “Biển Đông” để hướng tới những điều tốt đẹp dành cho dân tộc. Sóng của biển cả cũng chính là con sóng của nhiệt huyết đang dâng trào, chắp cánh cho ý chí vượt đại dương tìm đường cứu nước thêm phần tự tin. Tư thế cùng khát vọng lên đường của nhân vật trữ tình trong hai câu cuối có sức truyền cảm mạnh mẽ. Phan Bội Châu từ bài này gợi lên được nhiệt huyết của cả một thế hệ mạnh mẽ, can trường, dám bứt phá, thay đổi.
-
I. Tác giả - Tác phẩm
1. Tác giả
- Phan Bội Châu tên thuở nhỏ là Phan Văn San, biệt hiệu chính là Sào Nam.
- Quê: Nghệ An.
- Ông là một trong những nhà nho đầu tiên có tư tưởng đi tìm đường cứu nước
- Những tác phẩm chính: Việt Nam vong quốc sử (1905), Hải ngoại huyết thư (1906), Ngục trung thư (1914), Trùng Quang tâm sử (viết trong thời kì lưu vong ở nước ngoài)...
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác:
Năm 1905, trước lúc lên đường sang Nhật Bản, ông làm bài thơ này để từ giã bạn bè, đồng chí.
b. Bố cục
Bố cục : 4 phần
- Hai câu đề: Quan niệm về chí làm trai
- Hai câu thực: Khẳng định ý thức trách nhiệm của cá nhân trước thời cuộc
- Hai câu luận: Quan niệm về nguyên tắc hành xử mới trước vận mệnh đất nước
- Hai câu kết: Tư thế, khát vọng buổi lên đườngc. Nội dung chính
Lưu biệt khi xuất dương khắc họa vẻ đẹp lãng mạn hào hùng của nhà chí sĩ cách mạng những năm đầu thế kỉ XX, với tư tưởng mới mẻ, táo bạo, bầu nhiệt huyết sôi trào và khát vọng cháy bỏng trong buổi ra đi tìm đường cứu nước.
II. Hướng dẫn soạn bàiCâu 1 (trang 5 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Qua tiểu dẫn:
- Bối cảnh lịch sử đất nước:
+ Đất nước đang lâm vào tình trạng nguy nan, bị giặt chiếm đóng.
+ Nhiều phong trào yêu nước của các sĩ tử yêu nước bị thất bại, nhân dân nản chí, những anh hùng cứu nước bị hi sinh.
+ Con đường cứu nước bế tắc.
- Những ảnh hưởng từ nước ngoài để hiểu bài thơ: ảnh hưởng từ Trung Hoa, Nhật Bản đã tác động đến dân tộc ta rất sâu sắc.
Câu 2 (trang 5 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
a. Hai câu đề.
- Khẳng định chí làm trai, lẽ sống cao đẹp.
- Phải lạ: Phải biết sống cho phi thường, biết mưu đồ việc lớn, xoay chuyển càn khôn, lưu lại tiếng thơm cho muôn đời.
- Đã làm trai phải tích cực, chủ động trong cuộc sống, không chịu khuất phục trước số phận, trước hoàn cảnh.
=> Lí tưởng ấy tạo cho con người tư thế mới, khoẻ khoắn, ngang tàng, ngạo nghễ, chứ không tầm thường, buông xuôi theo số phận.
b. Hai câu thực.
- Tác giả tự ý thức về cái tôi – tự hào về vai trò của mình trong cuộc đời và trong lịch sử.
- Chí làm trai gắn với cái tôi trách nhiệm đáng kính. Giữa cuộc sống tối tăm mà có được cái tôi ấy quả là cứng cỏi và đẹp đẽ vô cùng.
- Câu hỏi tu từ có tính chất khẳng định, giục giã.
=> Quan niệm chí làm trai của Phan Bôi Châu mới mẻ tiến bộ và nhân văn.
c. Hai câu luận.
- Nêu bật một quan niệm sống đẹp đẽ của kẻ sĩ trước thời cuộc và lịch sử dân tộc: Đau về nỗi nhục mất nước, phủ nhận cách học cũ kỹ, lạc hậu (đọc sách thánh hiền - đạo Nho ) không hợp thời, vô nghĩa trong buổi nước mất nhà tan.
=> Tư tưởng sâu sắc, tiến bộ nhất, thể hiện khí phách ngang tàng, táo bạo, của nhà cách mạng tiên phong, có tinh thần trách nhiệm cao độ trong thời đại mới.
d. Hai câu kết.
- Tư thế hăm hở ra đi tìm đường cứu nước. Thể hiện một khát vọng lớn, một sự hoà nhập với vũ trụ bao la.
- Con người là trung tâm lồng lộng giữa trời biển mênh mông, như đang bay lên cùng muôn ngàn con sóng
- Hình ảnh lãng mạn, hào hùng, giàu chất sử thi.
Câu 3 (trang 5 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Lời dịch của hai câu 6 và 8 so với nguyên tác đã có phần chưa sát nghĩa, cụ thể:
- Câu 6: Câu thơ dịch là “học cũng hoài” chỉ thể hiện được ý phủ nhận mà chưa thể hiện rõ cái tư thế, khí phách ngang tàng, dứt khoát của tác giả.
- Câu 8: Câu thơ dịch chưa khắc họa được rõ nét tư thế và khí thế hùng mạnh, bay bổng như nguyên tác: “nhất tề phi” – “cùng bay lên”.
Câu 4 (trang 5 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
- Tình yêu quê hương, đất nước của con người
- Lí tưởng sống, lẽ sống cao đẹp, tiến bộ.
- Tư thế con người kì vĩ, sánh ngang tầm vũ trụ.
- Niềm khao khát, đương đầu vào thử thách.
- Giọng thơ thay đổi tài tình và linh hoạt.
Luyện tập
Cảm nhận về nghệ thuật trong hai câu cuối của bài thơ.
+ Không gian: biển Đông rộng lớn.
+ Hình ảnh kì vĩ lớn lao: Trường phong (ngọn gió dài); Thiên trường bạch lãng (ngàn lớp sóng bạc).
+ Tư thế của con người sánh ngang tầm vũ trụ: Nhất tề phi (cùng bay lên).
+ Lối nói nhân hóa “thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”.
=> Hình ảnh đầy lãng mạn nhưng cũng rất hào hùng, thể hiện lời nguyện thề dứt khoát, thiêng liêng, dạt dào niềm lạc quan, phơi phới niềm tin.
-
Tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm
I. Tác giả
1. Cuộc đời
- Phan Bội Châu (1867 – 1940) biệt hiệu chính là Sào Nam quê ở làng Đan Nhiễm, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Ông là một trong những nhà thơ Việt Nam đầu tiên nuôi ý tưởng đi tìm một con đường cứu nước mới sau khi phong trào Cần Vương chống Pháp thất bại.
- Ông tham gia thành lập Duy tân hội, tổ chức cách mạng theo đường lối dân chủ tư sản đầu tiên của nước ta vào năm 1904. Suốt hai mươi năm tiếp theo, ông bôn ba nhiều nước để mưu sự phục quốc nhưng không thành.
- Năm 1925, thực dân Pháp bắt cóc ông ở Thượng Hải, đưa về nước định thủ tiêu, nhưng vấp phải làn sóng đấu tranh mạnh mẽ của đồng bào khắp cả nước, nên phải xử trắng án, giam lỏng ông tại Huế cho đến lúc qua đời.
2. Sự nghiệp văn học
- Trên con đường hoạt động cách mạng, Phan Bội Châu đã nắm lấy văn chương và coi đó là một thứ vũ khí đắc lực để phục vụ cho hoạt động cách mạng.
- Tuy sự nghiệp cứu nước của Phan Bội Châu không thành nhưng ông đã trở thành cây bút xuất sắc nhất của thơ văn cách mạng trong vòng mấy chục năm đầu thế kỉ XX. Ông để lại một kho tàng thơ văn đồ sộ.
- Những tác phẩm nổi tiếng của ông, ban gồm: Việt Nam vong quốc sử (1905), Hải ngoại huyết thư (1906), Ngục trung thư (1914), Phan Bội Châu niên biểu (1929)...
3. Phong cách nghệ thuật
- Thơ văn Phan Bội Châu sục sôi nhiệt huyết yêu nước của chiến sĩ cách mạng. Ông là người khai sinh ra dòng thơ cách mạng mang tính chiến đấu cao trong lịch sử thơ văn của dân tộc.
- Phan Bội Châu rất thành công trong lĩnh vực thơ văn tuyên truyền, cổ động cách mạng và thể loại tiểu thuyết chương hồi.
II. Tác phẩm
1. Hoàn cảnh xuất xứ
- Bài thơ được sáng tác năm 1905, trước khi Phan Bội Châu lên đường sang Nhật để từ giã bạn bè, đồng chí.
2. Nội dung chính
- Bài thơ khắc họa vẻ đẹp lãng mạn hào hùng của nhà chí sĩ cách mạng những năm đầu thế kỉ XX, với lý tưởng cứu nước cao cả, nhiệt huyết sôi sục, tư thế và khát vọng lên đường cháy bỏng trong buổi đầu ra đi tìm đường cứu nước.
3. Bố cục
- Hai câu đề: Đề cập vấn đề "chí làm trai" nói chung và khẳng định một lẽ sống đẹp.
- Hai câu thực: Chí làm trai gắn với ý thức về “cái tôi” công dân đầy tính thần trách nhiệm trước cuộc đời.
- Hai câu luận: Gắn chí làm trai vào hoàn cảnh thực tế của nước nhà.
- Hai câu kết: Tư thế và khát vọng buổi lên đường của nhân vật trữ tình.
Gợi ý trả lời câu hỏi
Câu 1 - Trang 5 SGK
Đọc Tiểu dẫn, chú ý bối cảnh lịch sử đất nước và những ảnh hưởng từ nước ngoài để hiểu bài thơ.
Trả lời:
Văn học trung đại có loại thơ để nói chí, tỏ lòng ("Thi dĩ ngôn chí"). Bài thơ này cũng bộc lộ trực tiếp chí khí, hoài bão của tác giả. Nó rất gần với Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão, Chí làm trai của Nguyễn Công Trứ,... Điều đặc biệt là chính cuộc đời và sự nghiệp của các tác giả đã minh chứng cho lí tưởng sống cao đẹp trong thơ. Thơ là gan ruột, là tâm huyết của họ. Họ đã trải nghiệm tất cả những điều đó bằng chính cuộc đời của mình trước khi biểu hiện trong văn chương.
Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh khá đặc biệt, đó là vào lúc tình hình chính trị trong nước hết sức rối ren. Chủ quyền đất nước đã hoàn toàn mất vào tay giặc, phong trào vũ trang chống thực dân Pháp theo con đường Cần vương đã thất bại không có cơ hội cứu vãn, chế độ phong kiến đã cao chung, bao anh hùng, nghĩa sĩ cứu nước đã hi sinh... Tinh hình đó đặt ra trước mắt các nhà yêu nước một câu hỏi lớn, đầy day dứt: phải cứu nước bằng con đường nào?
Tiếp thu những tư tưởng dân chủ tư sản từ nước ngoài đang tràn vào Việt Nam ngày càng mạnh qua con đường Trung Hoa, Nhật Bản và trực tiếp từ Pháp, từ các nước phương Tây, trong hoàn cảnh con đường cứu nước đang bế tắc, các nhà nho ưu tú của thời đại như Phan Bội Châu đã say sưa với một hướng đi mới bất chấp nguy hiểm, gian lao mong tìm ra ánh bình minh cho Tổ quốc.
Câu 2 - Trang 5 SGK
Tư duy mới mẻ, táo bạo và khát vọng hành động của nhà chí sĩ cách mạng trong buổi ra đi tìm đường cứu nước được biểu lộ như thế nào?
Trả lời:
Xuất dương lưu biệt là lẽ sống mới, là khát vọng hành động của nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu trong buổi đầu ra đi tìm đường cứu nước.
a. Bài thơ mở đầu bằng hai câu thơ nói lên cái "chí làm trai":
Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.
Người xưa vốn không có quan niệm về thanh niên nói chung. Do tư tưởng "trọng nam khinh nữ" trong xã hội phong kiến, "chí làm trai’ chỉ dành riêng cho các bậc trượng phu, các đấng mày râu, không bao hàm phụ nữ. Hai câu thơ khẳng định một lẽ sống đẹp của trượng phu. Phải lạ nghĩa là phải biết sống cho phi thường, hiển hách, phải dám mưu đồ những việc kinh thiên, động địa, xoay chuyển "càn khôn", chứ không thể sống tầm thường, tẻ nhạt, buông xuôi theo số phận, chịu để con tạo xoay vần.
Cảm hứng và ý thơ của Phan Bội Châu gần gũi với lí tưởng nhân sinh của các nhà nho thuở trước (Phạm Ngũ Lão: Công danh nam tử còn vượng nợ; Nguyễn Công Trứ: Chí làm trai nam, bắc, đông, tây - Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể), nhưng nó táo bạo hơn, quyết liệt hơn. Con người dám đối mặt với cả trời đất (càn khôn), cả vũ trụ để tự khẳng định mình, vượt hẳn lên cái mộng công danh gắn với hai chữ hiếu, trung để vươn tới những lí tưởng nhân quần, xã hội rộng lớn và cao cả hơn nhiều. Lí tưởng sống ấy đã tạo cho con người một tư thế mới, sánh ngang tầm vũ trụ.
b. Nếu như hai câu đầu là một mở đề thì hai câu thực kế tiếp triển khai cụ thể cái tư tưởng về "chí làm trai" ấy.
"Chí làm trai" của Phan Bội Châu gắn với ý thức về cái "tôi”, nhưng không phải là cái "tôi" cá nhân mà là một cái "tôi" công dân đầy tinh thần trách nhiệm trước cuộc đời:
Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai?
Cuộc thế trăm năm này cần phải có ta, không phải là để hưởng lạc thú mà là để cống hiến cho đời, để đáng mặt nam nhi, để lưu danh thiên cổ. Câu thơ thứ nhất khẳng định dứt khoát, đến câu thứ hai, tác giả chuyển sang giọng nghi vấn, nhưng cũng để nhằm khẳng định quyết liệt hơn một khát vọng sống hiển hách, phát huy hết tài năng và chí khí cống hiến cho đời, để tên tuổi còn lại mãi mãi về sau. Ý thơ được tăng cấp lên, đồng thời thêm giọng khuyến khích, giục giã.
Trong những năm đầu thế kỉ XX, sau những thất bại liên tiếp của các phong trào đấu tranh vũ trang chống thực dân Pháp, một nỗi thất vọng, bi quan đang đè nặng lên tâm hồn những người Việt Nam yêu nước. Tâm lí buông xuôi, an phận, cam chịu cảnh "cá chậu chim lồng" trong một bộ phận nhân sĩ không phải không có. Chính bởi thế mà Phan Bội Châu muốn rung lên một hồi chuông để thức tỉnh mọi người, giục gọi thế hệ mình tiếp tục con đường tranh đấu.
Câu thơ giàu cảm hứng lãng mạn bay bổng gắn với những hình tượng nghệ thuật kì vĩ, trường tồn: Đất trời cao rộng (càn khôn), cuộc nhân sinh một đời người (trong khoảng trăm năm) và cả tương lai nối dài phía sau (sau này muôn thuở), càng làm tăng đến vô cùng sức mạnh của khát vọng và niềm tin.
c. Đến hai câu luận, cái "chí làm trai" oai hùng kia được gắn với hoàn cảnh thực tế xót xa của nước nhà:
Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài!
Câu 5 nói lên nỗi nhục mất nước, nỗi xót đau đốt cháy tâm can nhà thơ (Non sông đã chết), đồng thời cũng khẳng định ý chí thép gang của những con người không cam chịu sống cuộc đời nô lệ đắng cay (Non sông đã chết, sống thêm nhục). Ý chí ấy gần gũi với tư tưởng yêu nước, với ý chí của người nghĩa sĩ nông dân trong thơ của Nguyễn Đình Chiểu. Nhưng đến câu 6 thì tư tưởng của Phan Bội Châu đã vượt hẳn lên, mang những sắc thái mới của tư tưởng thời đại.
Nêu cảm hứng yêu nước trong thơ văn cụ Đồ Chiểu còn mang nặng chữ hiếu, trung thì đến Phan Bội Châu, nó đã khác. Cụ Phan đã dám đối mặt với cả nền học vấn cũ để nhận thức một chân lí: Sách vở thánh hiền chẳng giúp ích gì trong buổi nước mất nhà tan, nếu cứ khư khư ôm giữ lấy thì chỉ là ngu (tụng diệc 57) mà thôi. Tất nhiên, Phan Bội Châu không phủ nhận cả nền học vấn Nho giáo, nhưng có được một ý tưởng như thế đã là hết sức táo bạo đối với một người từng là môn đồ của nơi "cửa Khổng sân Trình" rồi.
Có được dũng khí và nhận thức sáng suốt đó trước hết phải kể đến tấm lòng yêu nước nồng cháy mà ông đã thể hiện ở câu trên, đến khát vọng tìm con đường đi mới có thể đưa nước nhà thoát ra khỏi cảnh khổ đau. Bên cạnh đó không thể không nói tới những ảnh hưởng của luồng tư tưởng mới đang len lỏi vào đất nước này ngay từ mấy năm cuối thế kỉ XIX mà Phan Bội Châu đã đón nhận qua những cuốn tân thư lưu truyền bí mật. Nhân vật trữ tình ở đây hiện lên sừng sững, oai hùng với cái khí phách ngang tàng, táo bạo, quyết liệt của một nhà cách mạng đi tiên phong cho thời đại mới.
d. Bài thơ khép lại trong tư thế và khát vọng buổi lên đường của nhân vật trữ tình.
Các hình ảnh ở hai câu thơ cuối đều hết sức lớn lao: Biển Đông, cánh gió, muôn trùng sóng bạc. Tất cả đều như hoà nhập với con người trong tư thế đang "bay lên" (chữ nhất tề phi dịch là tiễn ra khơi quá êm ả, không thật sát). Hình ảnh kết thúc này thật lãng mạn, hào hùng, con người dường như được chắp đôi cánh thiên thần, bay bổng trên thực tại tối tăm, khắc nghiệt vươn ngang tầm vũ trụ bao la.
Câu 3 - Trang 5 SGK
Anh (chị) có nhận xét gì về hai câu 6 và 8 của bản dịch thơ so với nguyên tác (đối chiếu với phần dịch nghĩa)?
Trả lời:
So với nguyên tác, hai câu 6 và 8 dịch có đôi điều khác biệt:
- Câu 6: Nguyên tác: "Nguyện trục trường phong Đông hải khứ" - Mong muốn đuổi theo ngọn gió dài đi qua biển Đông. Câu dịch thơ lại là: "Muốn vượt bể Đông theo cánh gió" - đạp bằng gian khó để đạt được ước nguyện giải phóng dân tộc. Nhưng câu thơ dịch chỉ chú ý đến "vượt bể Đông" mà không chú trọng đến ý thơ thể hiện được nhà thơ ý thức được gian khó - ý thức được gian khó nhưng vẫn khao khát vượt qua "đuổi theo". Do đó làm mất đi đôi chút lớn lao, mạnh mẽ, can trường của nhân vật trữ tình.
- Câu 8: Nguyên tác: "Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi" - ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên. Câu thơ dịch là: "Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi". Câu thơ dịch làm mất đi cái kì vĩ, hào sảng của hình ảnh "nhất tề phi" - "cùng bay lên" đầy lãng mạn, hùng tráng.
Câu 4 - Trang 5 SGK
Theo anh (chị), những yếu tố nào đã tạo nên sức lôi cuốn mạnh mẽ của bài thơ này?
Trả lời:
Những yếu tố tạo nên sức lôi cuốn mạnh mẽ của bài thơ.
- Khát vọng sống hào hùng, mãnh liệt của nhân vật trữ tình.
- Tư thế con người kì vĩ, đầy lãng mạn, sánh ngang tầm cùng vũ trụ.
- Khí phách ngang tàng, dám đương đầu với mọi thử thách.
- Giọng thơ tâm huyết, sâu lắng mà sục sôi, hào hùng.
*** Để cảm nhận rõ nét hơn những giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm, mời các em tham khảo thêm những bài văn mẫu hay phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương do Đọc Tài Liệu tổng hợp.
Luyện tập
Câu hỏi: Viết một đoạn văn trình bày những cảm nhận của anh (chị) về hình ảnh nghệ thuật ở hai câu thơ cuối bài.
Trả lời:
Nghệ thuật của hai câu thơ cuối bài:
- Không gian: biển Đông rộng lớn
- Hình tượng thơ vừa kỳ vĩ, lớn lao vừa lãng mạn, thơ mộng (trường phong, Đông hải, thiên trùng, bạch lãng)
- Lối nói nhân hóa “thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”
- Câu 7: Âm điệu rắn rỏi, thể hiện lời nguyện thề dứt khoát, thiêng liêng với chính mình, trước bạn bè, đồng chí và đồng bào.
- Câu 8: Âm điệu nhịp nhàng, bay bổng, cao dần, xa dần làm cho lời nguyện biến thành hành động, dạt dào niềm lạc quan, phơi phới niềm tin.
Tham khảo đoạn văn sau:
"... Đến hai câu kết thì những nét bút kì vĩ cuối cùng đã hoàn thiện hành động kiệt xuất của một cuộc đời kiệt xuất:
Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
Sáu câu thơ trên gợi ra những suy nghĩ, những lựa chọn, những chuẩn bị trong tâm lí, trong tư tưởng của một con đại bàng. Ở hai câu này, chúng ta thấy con đại bàng ấy đang tung đôi cánh mênh mông của mình bay thẳng ra trùng dương, đối mặt với hết thảy những giông tố, bão bùng. Câu thơ gợi ta nhớ đến tư thế con chim lớn trong thơ Nguyễn Hữu Cầu: "Bay thẳng cánh muôn trùng tiêu Hán - Phá vòng vây bạn với kim ô". Nhưng câu thơ của Phan Bội Châu không còn là một hình ảnh ước lệ nữa. Bởi phong trào Đông Du mà ông là người chủ trương, bởi việc xuất dương mà ông là người khởi sự chính là những hành động phi thường của những bậc trượng phu sẵn sàng ném đời mình vào muôn trùng sóng bạc ra khơi tìm đường làm sống lại "giang sơn đã chết", tìm cách xoay chuyển càn khôn.
Bài thơ kết thúc bằng câu thơ đầy hùng tâm tráng chí mà câu thơ dịch chưa thể chuyển tải hết được:
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
(Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi)
Như vậy, làm trang nam nhi không phải là bằng mọi cách để lưu danh sử sách, khẳng định cá nhân. Mà cá nhân ấy phải làm nên việc phi thường, ấy là việc kinh bang tế thế, cứu dân cứu nước. Khát vọng sống cao cả của Phan Bội Châu ở đây, một lần nữa, giúp ta hiểu được cái cốt cách vĩ đại của con người kiệt xuất này".
(Phan Huy Dũng, Phân tích bình giảng tác phẩm văn học II, NXB Giáo dục, 2006)
-
A.KIẾN THỨC TRỌNG TÂM
1. Tác giả:
Phan Bội Châu (1867 - 1940)
Quê: Đan Nhiễm – Nam Đàn – Nghệ An.
Là một người yêu nước và cách mạng “vị anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập”. Phan Bội Châu là người khởi xướng, là ngọn cờ đầu của phong trào yêu nước và cách mạng Việt Nam, trong khoảng 20 năm đầu của thế kỉ XX.
Là nhà thơ, nhà văn, là người khởi nguồn cho loại văn chương trữ tình.
2. Tóm tắt tác phẩm:
Viết trong buổi chia tay với bạn bè lên đường sang Nhật Bản.Tình hình chính trị trong nước đen tối, các phong trào yêu nước thất bại, ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản từ nước ngoài tràn vào. Là trai tài của dân tộc phải ra đi tìm đường cứu nước. Tác phẩm "Lưu biệt khi xuất dương" thể hiện sự hào hùng táo bạo của các trí sĩ Cách mạng trong hành trình cứu nước gian khổ. Bài thơ đã làm nổi bật được ý thức trách nhiệm của những con người đang hừng hực khí thế hoài bão về một nước nhà độc lập. Cũng trong tác phẩm này tác giả cũng cho thấy một tinh thần quyết liệt của những chí sĩ Cách mạng, tư thế hiên ngang buổi lên đường cứu nước.
B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI
Câu 1: Trang 5 sgk ngữ văn 11 tập 2
Đọc tiểu dẫn chú ý bối cảnh lịch sử đất nước và những ảnh hưởng từ nước ngoài để hiểu bài thơ.
Bài làm:
Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh khá đặc biệt, đó là vào lúc tình hình chính trị trong nước hết sức rối ren. Chủ quyền đất nước hoàn toàn mất vào tay giặc. Phong trào vũ trang chống Pháp theo con đường Cần Vương đã thất bại không có cơ hội cứu vãn, chế độ phong kiến đã lỗi thời không còn phù hợp với tình cảnh đất nước lúc bấy giờ, bao anh hùng, nghĩa sĩ cứu nước đã hi sinh, … Tình hình đó đặt ra trước mắt các nhà yêu nước một câu hỏi lớn, đầy day dứt: cứu nước bằng con đường nào?
Ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản từ nước ngoài đang tràn vào Việt Nam ngày càng mạnh qua con đường Trung Hoa, Nhật Bản và trực tiếp từ Pháp, từ các nước phương Tây. Đang bế tắc, người ta có thể tìm thấy ở đó những gợi ý hấp dẫn về một con đường cứu nước với những viễn cảnh đầy hứa hẹn cho tương lai. Vì thế,các nhà nho ưu tú của thời đại như Phan Bội Châu say sưa dấn bước, bất chấp nguy hiểm, gian lao mong tìm ra ánh bình minh cho Tổ Quốc.Câu 2: Trang 5 sgk ngữ văn 11 tập 2
Tư duy mới mẻ, táo bạo và khát vọng hành động của nhà chí sĩ cách mạng trong buổi ra đi tìm đường cứu nước?
Bài làm:
Quan niệm mới về chí làm trai và tư thế tầm vóc của con người trong vũ trụ. Đó là một quan niệm của các nhà nho thời phong kiến cho rằng làm trai đứng giữa trời đất phải làm được việc lớn, phải hiên ngang, lừng lẫy. "Làm trai phải lạ ở trên đời" lạ ở đây tức là làm trai phải mưu đồ việc lớn, phải sống phi thường hiển hách, phải xoay chuyển càn khôn chứ không chấp nhận một cuộc sống bình thường. Phan Bội Châu nêu lên một chí làm trai vượt lên mưu đồ công danh để hướng tới những lý tưởng cao đẹp ở đời.
Ý thức trách nhiệm cá nhân trước thời cuộc: Trong câu thơ "há để càn khôn tự chuyển dời" tác giả cho thấy một quan điểm không chấp nhận thực tại. Nếu như quan điểm phong kiến cho rằng trời là thiên mệnh, mọi việc đều phải tuân theo mệnh trời do trời quyết định thì Phan Bội Châu không chấp nhận số phận chủ động xoay chuyển thời thế. Ngụ ý nói đến mục tiêu của nam nhi là phải tìm con đường cứu nước.
Thái độ quyết liệt trước tình cảnh đất nước vẫn tin điều xưa cũ. "Trong khoảng trăm năm còn có tớ" cái tôi ở đây không phải là cái tôi nhỏ bé mà là cái tôi đầy trách nhiệm với cuộc đời, cuộc đời cần ta để cống hiến. "Sau này muôn thuở há không ai?" một câu hỏi tu từ khẳng định chắc nịch vào vào khát vọng cống hiến hết với đời, sống hiển hách phi thường. Cùng đó Phan Bội Châu thể hiện niềm tin sắt đá vào bản thân và thế hệ tương lai. Hai câu thơ sau thể hiện sâu sắc nỗi đau mất nước, ý thức của thân phận không cam chịu:
"Non sông đã chết sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài !"
Câu thơ thức tỉnh ý thức hành động thiết thực, yêu nước là phải cứu nước. Chứ không thể nghe theo sách thánh hiền vì nó đã không còn phù hợp với tình hình đất nước lúc bấy giờ.
Khát vọng hành động và tư thế lên đường. Hình ảnh kì vĩ lớn lao "biển Đông", "cánh gió" muôn trùng "sóng bạc" tương ứng với hành động cao cả, tầm vóc phi thường của Phan Bội Châu.Thể hiện khát vọng lên đường có một sức mạnh, khơi dậy nhiệt huyết của cả một thế hệ.Câu 3: Trang 5 sgk ngữ văn 11 tập 2
Anh (chị) có nhận xét gì về hai câu 6 và 8 của bản dịch thơ so với nguyên tác (đối chiếu với phần dịch nghĩa)?
Bài làm:
Hai câu thơ 6 và 8 trong bản dịch thơ so với nguyên tác có chút khác biệt:
Câu 6: Trong bản nguyên tác câu 6 là "Thánh hiền đã vắng thì có đọc sách cũng ngu thôi !" Tác giả chưa đến mức phủ nhận tất cả giá lý nho gia nhưng tác giả cho thấy một quan điển rõ ràng rằng sách vở, đạo đức nho gia đã từng là giường cột cho phong kiến Việt Nam đã không còn có thể giúp ích được cho ta trong buổi nước mất nhà tan. Ngược lại, nếu cứ khư khư nệ cũ, chìm đắm trong tư tưởng trung quân thì chỉ làm mình ngu thêm mà thôi. Tuy nhiên trong bản dịch thơ tác giả chỉ nêu được rằng "học cũng hoài' mới chỉ nêu được sự phủ định của Phan Bội Châu với Nho học chứ chưa làm nổi bật lên khí phách ngang tàng, dứt khoát của tác giả.
Câu 8: Trong nguyên tác câu thơ này là "Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi" những hình tượng vừa kì vĩ, lớn lao vừa lãng mạn. Như hòa nhập với con người trong tư thế cùng bay lên, thể hiện chất sử thi cuộn trào trong từng câu chữ. Câu này được dịch thành thơ "Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi" chưa thể hiện được khí thế hùng mạnh, bay bổng như nguyên tác nhưng cũng có thể hiện được sự thích thú của nhân vật trữ tình trước những khó khăn.Câu 4: Trang 5 sgk ngữ văn 11 tập 2
Theo anh (chị), những yếu tố nào đã tạo nên sức lôi cuốn mạnh mẽ của bài thơ này?
Bài làm:
Khát vọng sống hào hùng, mãnh liệt của nhân vật trữ tình.
Tư thế con người kì vĩ, đầy lãng mạn, sánh ngang cùng vũ trụ.
Khí phách ngang tàn, dám đương đầu với mọi thử thách.
Giọng thơ tâm huyết, sâu lắng mà sục sôi, hào hùng. -
I. VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
1. Tác giả Phan Bội Châu (1867 - 1940)
- Quê hương của ông ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Mảnh đất từng được ca tụng là “địa linh nhân kiệt” (Đó cũng là quê hương của Chủ tịch Hồ Chí Minh).
- Là một trong những nhà nho Việt Nam đầu tiên nuôi ý tưởng đi tìm con đường cứu nước mới. Ông cố gắng học hành, thi cử, đỗ đạt không phải để làm quan mà để trang bị vốn hiểu biết, tạo uy tín, chuẩn bị cơ sở cho hoạt động cách mạng.
- Phan Bội Châu là lãnh tụ của các phong trào yêu nước và cách mạng đầu thế kỉ. Mặc dù sự nghiệp cứu nước của ông không thành nhưng đối với dân tộc ta, ông mãi mãi là tấm gương yêu nước thiết tha, một nhiệt huyết cứu nước sôi sục và một lòng tin không đổi dời đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ông là “bậc anh hùng, vị thiên sứ được 25 triệu đồng bào tôn kính” (Nguyễn Ái Quốc - Những trò lố hay là Va ren và Phan Bội Châu).
- Ông từng nói “Lập thân tối hạ thị văn chương” nhưng thực tế con người ông đã sẵn có tài văn nên trên con đường hoạt động cách mạng ông đã dùng văn chương để tuyên truyền cổ động. Chính nhiệt tình cách mạng trong con người ông đã khiến thơ văn ông một thời rung động biết bao con tim yêu nước.
2. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ:
Cần hiểu thêm: Năm 1905 (thời điểm bài thơ ra đời) hoàn cảnh đất nước vẫn tăm tối mịt mù. Nhưng phong trào cách mạng đã bắt đầu hé lên với việc thành lập tổ chức Duy tân hội, chủ trương phong trào Đông du, hướng tới Nhật Bản, lấy những thành tích của đất nước Nhật Bản duy tân để nhen nhóm khát vọng, ước mơ về tương lai đất nước. Đặt bài thơ vào bối cảnh thời đại đó, các em sẽ cảm nhận được khát vọng lớn lao, sôi sục của Phan Bội Châu trong bài thơ và niềm tin của tác giả ở một bài thơ khác. Chẳng hạn:
Đạp toang hai cánh càn khôn
Đêm xuân về lại trong non nước nhà.
(Chơi xuân)
3. Thể thơ:
Đường luật thất ngôn bát cú
Từ thể loại đến hình ảnh thơ mang tính ước lệ tượng trưng có thể thấy hình thức bài thơ vẫn là hình thức thơ cũ, những tư tưởng chứa đựng trong bài thơ lại rất mới (Bình cũ rượu mới).
II. GỢI Ý TRẢ LỜI CÂU HỎI
Câu 1. Đọc phần Tiểu dẫn để hiểu bối cảnh ra đời của bài thơ là do những ảnh hưởng từ nước ngoài vào để hiểu cái nhiệt tình, hăm hở, “vượt biển Đông” của tác giả và các đồng chí của mình (Những quyển Tân thư - sách bằng chữ Hán do các nhà cách mạng Trung Quốc trước tác hoặc dịch từ tiếng Anh, tiếng Pháp nhằm truyền bá những tư tưởng dân chủ tư sản, những thành tích duy tân của Nhật Bản; đất nước Trung Hoa “duy ngã độc tôn” đang chuyển mình...).
Câu 2. Lẽ sống mới và khát vọng hành động của nhà chí sĩ Phan Bội Châu trong buổi ra đi tìm đường cứu nước (Các em dựa trên cảm xúc của tác giả và những hình tượng nghệ thuật trong bài thơ để giải đáp câu hỏi này).
- Hai câu đề:
Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời
+ Trước hết nó vẫn nói đến chí nam nhi, một quan niệm nhân , sinh phổ biến dưới thời phong kiến. (Trong xã hội trọng nam khinh nữ, được sinh ra là nam nhi làm niềm vinh hạnh, nhưng đồng thời trọng trách cũng rất nặng nề) - Nam nhi phải làm nên chuyện lớn, phải lập nên kì tích lớn lao, dám mưu đồ những việc lớn. Có thể thấy đây là một quan niệm sống tích cực đã khích lệ được biết bao đấng nam nhi lập nên công tích, lưu danh muôn đời. Phạm Ngũ Lão từng bày tỏ khát khao được tài giỏi, mưu lược như Gia Cát Lượng để giúp vua, giúp nước (mặc dù ông đã là tướng giỏi, có công chống giặc Nguyên Mông):
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.
Hoặc những câu thơ của Nguyễn Công Trứ:
Chí làm trai nam, bắc, đông, tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn biển.
Tất cả đều xuất phát từ quan niệm như Phan Bội Châu đã nói “Làm trai phải lạ ở trên đời”.
+ Dưới thời phong kiến, người ta quan niệm tạo hóa sinh ra con người, chi phối số phận con người vì vậy thường nảy sinh tư tưởng phó thác số mệnh cho trời định đoạt. Điểm mới mẻ, táo bạo trong quan niệm về chí làm trai của Phan Bội Châu là sự chủ động xoay chuyển thời thế (Câu thơ “Há để càn khôn tự chuyển dời” là một câu hỏi tu từ biểu hiện sự phủ định: Há để ... không thể để...)
Đặt trong bối cảnh hiện tại, câu thơ của Phan Bội Châu ngụ ý nói đến mục tiểu hành động của nam nhi là phải tìm con đường cách mạng mang độc lập về cho đất nước.
- Hai câu thực:
Trong khoảng trăm năm cần có tới
Sau này muôn thuở, há không ai?
+ Trong cuộc đời này cần có ta. Không phải lối nói tự cao tự đại thiếu khiêm tốn mà đó là cách tự thể hiện mình hết sức mới mẻ, đáng kính trọng. Ta đã gặp một cái tội “ngất ngưởng” giữa cuộc đời của Nguyễn Công Trứ nhưng nhà thơ nghiêng về phác thảo một chân dung, một phong cách sống - Còn ở đây, Phan Bội Châu thể hiện rất rõ cái tôi công dân đầy tinh thần trách nhiệm gánh vác giang sơn, không chỉ riêng ông mà còn khích lệ các trang nam nhi cần có ý thức đó (cuộc đời này cần có chúng ta “xúm vai vào xốc vác cựu giang sơn” - Bài ca chúc Tết thanh niên - Phan Bội Châu).
+ Một đời người sống vì nước, ngàn năm sau tên tuổi sẽ được lưu.
Hai câu thơ cụ thể hóa lẽ sống của nam nhi: phải tự giác, chủ động, trước cuộc đời, phải lưu danh thiên cổ. Tác giả khẳng định mình đồng thời thúc giục mọi người sống có ích cho đời.
- Hai câu luận:
Non sông đã chết, sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài.
Tác giả gắn chí nam nhi vào hoàn cảnh thực tế của đất nước.
+ Khi đất nước có ngoại xâm, những người có lòng yêu nước thường hay đặt ra vấn đề “vinh - nhục” (Các em nhớ lại một số câu văn trong bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn; Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu). Câu thơ của Phan Bội Châu, thể hiện sâu sắc nỗi đau mất nước, ý thức về nỗi nhục của thân phận nô lệ, ngầm chứa sự phản kháng, không cam chịu (sống thêm nhục).
+ Sách thánh hiền răn dạy đạo đức lễ nghĩa, nhất là đạo làm tôi phải trung với vua. Phan Bội Châu cũng là trí thức Nho học, cũng từng đọc sách thánh hiền nhưng ông đã có nhận thức khác. Đất nước đã đổi thay, những ông vua tài giỏi, đức độ không còn, chỉ còn những ông vua phản dân hai nước, “Thánh hiền đã vắng” trung quân một cách ngu muội chẳng ích lợi gì. Sách vở thánh hiền chẳng giúp ích gì được trong thời buổi nước mất nhà tan. Câu thơ thức tỉnh ý thức hành động thiết thực, yêu nước là phải cứu nước (ở một bài thơ khác, Phan Bội Châu khuyên thanh niên “Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần”. Bỏ lối học cũ để tu dưỡng tinh thần cứu nước).
Phan Bội Châu đã dám đối mặt với nền học vấn cũ bằng sự quyết liệt, táo bạo của một nhà cách mạng đi tiên phong cho thời đại mới.
- Hai câu kết:
Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi
+ Những hình ảnh kì vĩ, lớn lao: “Bể Đông”, “cánh gió”, “muôn trùng sóng bạc”, phù hợp với hành động cao cả, tầm vóc phi thường của chủ thể trữ tình.
+ Câu thơ cuối dịch nghĩa là “Ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên” là một hình ảnh hào hùng lãng mạn. Sóng của biển cả hay nhiệt huyết cứu nước dâng trào chắp cánh cho ý chí vượt đại dương tìm đường cứu nước thêm phần hăm hở, tự tin. Tư thế và khát vọng lên đường của chủ thể trữ tình ở hai câu kết có một sức truyền cảm mạnh mẽ. Phan Bội Châu đã từ bài thơ này mà khơi gợi được nhiệt huyết của cả một thế hệ.
Câu 3. Âm hưởng hào hùng, giọng thơ tâm huyết, sục sôi, là những yếu tố có sức lôi cuốn người nghe, người đọc.