Top 2 Bài dự thi kể chuyện theo sách thu hút nhất
Hội thi Thiếu nhi kể chuyện theo sách là Hội thi được tổ chức hằng năm tại các trường học. Thông qua việc tổ chức sân chơi hữu ích, lành mạnh, khuyến khích các ... xem thêm...em sưu tầm và kể những câu chuyện ca ngợi về tình yêu quê hương, đất nước; về Đảng Cộng sản Việt Nam; về Bác Hồ kính yêu; về những người con ưu tú của đất Việt, Hội thi hướng đến mục tiêu hình thành thói quen đọc sách, nâng cao ý thức tự học, tự nghiên cứu cho các em học sinh, góp phần tích cực hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho các em. Và bài viết dưới đây của Vietnam9news.com sẽ giới thiệu đến bạn các bài dự thi kể chuyện theo sách hay nhất.
-
Kính thưa quý vị đại biểu, em tên là... học sinh lớp... Đến với hộ thi kể chuyện theo sách hôm nay, lời đầu tiên cho em gửi lời chào đến các vị đại biểu, các giám khảo cùng toàn thể hội thi, chúc hội thi thành công rực rỡ.
Tình mẹ, một tình cảm thiêng liêng, cao quý, ... cho mỗi người con, cho dù học là người như thế nào
"Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi suốt đời lòng Mẹ vẫn theo con."
Tình yêu của người mẹ hiền dành cho mỗi chúng ta không thể nói hết thành lời. Đến với hội thi hôm nay, em xin gửi đến quý vị câu chuyện cảm động về người mẹ, mang tên "Người mẹ điên" của tác giả Vương Hằng Tích.
Hai mươi ba năm trước, có một người con gái trẻ lang thang qua làng tôi, đầu bù tóc rối, gặp ai cũng cười cười, cũng chả ngại ngần ngồi tè trước mặt mọi người.
Đàn bà trong làng đi qua cô gái thường nhổ nước bọt, có bà còn chạy lên trước dậm chân, đuổi "Cút cho xa!". Thế nhưng cô gái không bỏ đi, vẫn cứ cười ngây dại quanh quẩn trong làng. Hồi đó, cha tôi đã 35 tuổi. Cha làm việc ở bãi khai thác đá bị máy chém cụt tay trái, nhà lại quá nghèo, mãi không cưới được vợ. Bà nội thấy con điên có sắc vóc, thì động lòng, quyết định mang cô ta về nhà cho cha tôi, làm vợ, chờ bao giờ cô ta đẻ cho nhà tôi "đứa nối dõi" sẽ đuổi đi liền.
Cha tôi dù trong lòng bất nhẫn, nhưng nhìn cảnh nhà, cắn răng đành chấp nhận. Thế là kết quả, cha tôi không phải mất đồng xu nào, nghiễm nhiên thành chú rể.
Khi mẹ sinh tôi, bà nội ẵm cháu, hóp cái miệng chẳng còn mấy cái răng vui sướng nói:
- Cái con mẹ điên này, mà lại sinh cho bà cái đứa chống gậy rồi!.
Có điều sinh tôi ra, bà nội ẵm mất tôi, không bao giờ cho mẹ đến gần con. Mẹ chỉ muốn ôm tôi, bao nhiêu lần đứng trước mặt bà nội dùng hết sức gào lên:
- Ðưa, đưa tôi...
Bà nội mặc kệ. Tôi còn trứng nước như thế, như khối thịt non, biết đâu mẹ lỡ tay vứt tôi đi đâu thì sao? Dù sao, mẹ cũng chỉ là con điên. Cứ mỗi khi mẹ khẩn cầu được bế tôi, bà nội lại trợn mắt lên chửi:
- Mày đừng có hòng bế con, tao còn lâu mới đưa cho mày. Tao biêt được mày bế nó, tao đánh mày chết. Có đánh chưa chết thì tao cũng sẽ đuổi mày cút!.
Bà nội nói với vẻ kiên quyết và chắc chắn. Mẹ hiểu ra, mặt mẹ sợ hãi khủng khiếp, mỗi lần chỉ dám đứng ở xa xa ngó tôi. Cho dù vú mẹ sữa căng đầy cứng, nhưng tôi không được một ngụm sữa mẹ nào, bà nội đút từng thìa từng thìa nuôi cho tôi lớn. Bà nói, trong sữa mẹ có "bệnh thần kinh", nếu lây sang tôi thì phiền lắm. Hồi đó nhà tôi vẫn đang giãy giụa giữa vũng bùn lầy của nghèo đói. Ðặc biệt là sau khi có thêm mẹ và tôi, nhà vẫn thường phải treo niêu. Bà nội quyết định đuổi mẹ, vì mẹ không những chỉ ngồi nhà ăn hại cơm nhà, còn thỉnh thoảng làm thành tiếng thị phi.
Một ngày, bà nội nấu một nồi cơm to, tự tay xúc đầy một bát cơm đưa cho mẹ, bảo:
- Con dâu, nhà ta bây giờ nghèo lắm rồi, mẹ có lỗi với cô. Cô ăn hết bát cơm này đi, rồi đi tìm nhà nào giàu có hơn một tí mà ở, sau này cấm không được quay lại đây nữa, nghe chửa?.
Mẹ tôi vừa và một miếng cơm to vào mồm, nghe bà nội tôi hạ "lệnh tiễn khách" liền tỏ ra kinh ngạc, ngụm cơm đờ ra lã tã miệng. Mẹ nhìn tôi đang nằm trong lòng bà, lắp bắp kêu ai oán:
- Ðừng... đừng....
Bà nội sắt mặt lại, lấy tác phong uy nghiêm của bậc gia trưởng nghiêm giọng hét:
- Con dâu điên mày ngang bướng cái gì, bướng thì chả có quả tốt lành gì đâu. Mày vốn lang thang khắp nơi, tao bao dung mày hai năm rồi, mày còn đòi cái gì nữa? Ăn hết bát đấy rồi đi đi, nghe thấy chưa hả?
Nói đoạn bà nội lôi sau cửa ra cái xẻng, đập thật mạnh xuống nền đất như Dư Thái Quân nắm gậy đầu rồng, "phầm!" một tiếng. Mẹ sợ chết giấc, khiếp nhược lén nhìn bà nội, lại chậm rãi cúi đầu nhìn xuống bát cơm trước mặt, có nước mắt rưới trên những hạt cơm trắng nhệch. Dưới cái nhìn giám sát, mẹ chợt có một cử động kỳ quặc, mẹ chia cơm trong bát một phần lớn sang cái bát không khác, rồi nhìn bà một cách đáng thương hại. Bà nội ngồi thẫn thờ, hoá ra, mẹ muốn nói với bà rằng, mỗi bữa mẹ sẽ chỉ ăn nửa bát, chỉ mong bà đừng đuổi mẹ đi. Bà nội trong lòng như bị ai vò cho mấy nắm, bà nội cũng là đàn bà, sự cứng rắn của bà cũng chỉ là vỏ ngoài.
Bà nội quay đầu đi, nuốt những giọt nước mắt nóng đi, rồi quay lại sắt mặt nói:
- Ăn mau ăn mau, ăn xong còn đi. Ở nhà này cô cũng chết đói thôi!
Mẹ tôi dường như tuyệt vọng, đến ngay cả nửa bát cơm con cũng không ăn, thập thễnh bước ra khỏi cửa, nhưng mẹ đứng ở bậc cửa rất lâu không bước ra. Bà nội dằn lòng đuổi:
- Cô đi, cô đi, đừng có quay đầu lại. Dưới gầm trời này còn nhiều nhà người ta giàu!
Mẹ tôi quay lại, đưa một tay ra phía lòng bà, thì ra, mẹ muốn được ôm tôi một tí. Bà nội lưỡng lự một lúc, rồi đưa tôi trong bọc tã lót cho mẹ. Lần đầu tiên mẹ được ẵm tôi vào lòng, môi nhắp nhắp cười, cười hạnh phúc rạng rỡ. Còn bà nội như gặp quân thù, hai tay đỡ sẵn dưới thân tôi, chỉ sợ mẹ lên cơn điên, quăng tôi đi như quăng rác. Mẹ ôm tôi chưa được ba phút, bà nội không đợi được giằng tôi trở lại, rồi vào nhà cài chặt then cửa. Khi tôi bắt đầu lờ mờ hiểu biết một chút, tôi mới biết được, ngoài tôi ra, bọn trẻ chơi cùng tôi đều có mẹ. Tôi tìm cha đòi, tìm bà đòi, họ đều nói, mẹ tôi chết rồi. Nhưng bọn bạn cùng làng đều bảo tôi:
- Mẹ mày là một con điên, bị bà mày đuổi đi rồi.
Tôi tìm bà nội vòi vĩnh, đòi bà phải trả mẹ lại, còn chửi bà là đồ "bà lang sói", thậm chí hất tung mọi cơm rau bà bưng cho tôi. Ngày đó, tôi làm gì biết "điên" nghĩa là cái gì đâu, tôi chỉ cảm thấy nhớ mẹ tôi vô cùng, mẹ trông như thế nào nhỉ? mẹ còn sống.
Không ngờ, năm tôi sáu tuổi, mẹ tôi trở về sau 5 năm lang thang. Hôm đó, mấy đứa nhóc bạn tôi chạy như bay tới báo:
- Thụ, mau đi xem, mẹ mày về rồi kìa, mẹ bị điên của mày về rồi!
Tôi mừng quá, đít nhổng nhổng, co giò chạy vội ra ngoài, bà nội và cha cũng chạy theo tôi. Ðây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy mẹ, kể từ khi biết nhớ. Người đàn bà đó vẫn áo quần rách nát, tóc tai còn những vụn cỏ khô vàng khè, có trời mới biết là do ngủ đêm trong đống cỏ nào. Mẹ không dám bước vào cửa, nhưng mặt hướng về phía nhà tôi, ngồi trên một hòn đá cạnh ruộng lúa trước làng, trong tay còn cầm một quả bóng bay bẩn thỉu.
Khi tôi và lũ trẻ đứng trước mặt mẹ, mẹ cuống cuồng nhìn trong đám chúng tôi tìm con trai mẹ. Cuối cùng mẹ dán chặt mắt vào tôi, nhìn tôi chòng chọc, nhếch mép bảo:
- Thụ... bóng... bóng....
Mẹ đứng lên, liên tục giơ lên quả bóng bay trong tay, dúi vào tôi với vẻ lấy lòng. Tôi thì liên tục lùi lại. Tôi thất vọng ghê gớm, không ngờ người mẹ ngày đêm tôi nhớ thương lại là cái hình người này. Một thằng cu đứng cạnh tôi kêu to:
- Thụ, bây giờ mày biết con điên là thế nào chưa? Là mẹ mày như thế này đấy!
Tôi tức tối đáp lại nó:
- Nó là mẹ mày ấy! Mẹ mày mới là con điên ấy, mẹ mày mới là thế này!
Tôi quay đầu chạy trốn. Người mẹ bị điên này tôi không thèm. Bà nội và bố thì lại đưa mẹ về nhà. Năm đó, bà nội đuổi mẹ đi rồi, lương tâm bà bị chất vấn dày vò, bà càng ngày càng già, trái tim bà cũng không còn sắt thép được nữa, nên bà chủ động đưa mẹ về, còn tôi lại bực bội, bởi mẹ đã làm tôi mất thể diện.
Tôi không bao giờ tươi tỉnh với mẹ, chưa bao giờ chủ động nói với mẹ, càng không bao giờ gọi "Mẹ!", khi phải trao đổi với mẹ, tôi gào là chủ yếu, mẹ không bao giờ dám hé miệng.
Nhà không thể nuôi không mẹ mãi, bà nội quyết định huấn luyện cho mẹ làm việc vặt. Khi đi làm đồng, bà nội dắt mẹ đi "quan sát học hỏi", bà bảo mẹ không nghe lời sẽ bị đánh đòn. Sau một thời gian, bà nội nghĩ mẹ đã được dạy dỗ tương đối rồi, liền để mẹ tự đi cắt cỏ lợn. Ai ngờ mẹ chỉ cắt nửa tiếng đã xong cả hai bồ "cỏ lợn". Bà nội vừa nhìn đã tá hỏa sợ hãi, cỏ mẹ cắt là lúa giống vừa làm đòng trỗ bông trong ruộng nhà người ta. Bà nội vừa sợ vừa giận phát cuồng chửi rủa:
- Con mẹ điên, lúa và cỏ mà không phân biệt được..."
Bà nội còn đang chưa biết nên xoay xở ra sao, thì nhà có ruộng bị cắt lúa tìm tới, mắng bà cố ý dạy con dâu làm càn. Bà nội tôi lửa giận bốc phừng phừng, trước mặt người ta lấy gậy đánh vào eo lưng con dâu, chửi:
- Ðánh chết con điên này, mày cút ngay đi cho bà...
Mẹ tuy điên, nhưng vẫn biết đau, mẹ nhảy nhỏm lên chạy trốn đầu gậy, miệng phát ra những tiếng lắp bắp sợ hãi: "Ðừng... đừng...". Sau rồi, nhà người ta cũng cảm thấy chướng mắt, chủ động bảo:
- Thôi, chúng tôi cũng chẳng bắt đền nữa. Sau này giữ cô ta chặt một tí là được...
Sau khi cơn sóng gió qua, mẹ oại người dưới đất thút thít khóc. Tôi khinh bỉ bảo:
- Cỏ với lúa mà cũng chả phân biệt được, mày đúng là lợn!
Lời vừa dứt, gáy tôi bị một cái tát lật. Là bà… Bà trừng mắt bảo tôi:
- Thằng ngu kia, mày nói cái gì đấy? Mày còn thế này nữa? Ðấy là mẹ mày đấy!
Tôi vùng vằng bĩu môi:
- Cháu không có loại mẹ điên khùng thế này!
- A, mày càng ngày càng láo. Xem bà có đánh mày không!
Bà nội lại giơ tay lên, lúc này chỉ thấy mẹ như cái lò xo bật từ dưới đất lên, che giữa bà nội và tôi, mẹ chỉ tay vào đầu mẹ, kêu thảng thốt:
- Ðánh tôi, đánh tôi!
Tôi hiểu rồi, mẹ bảo bà nội đánh mẹ, đừng đánh tôi. Cánh tay bà trên không trung thõng xuống, miệng lẩm bẩm:
- Con mẹ điên này, trong lòng nó cũng biết thương con đây!…
Tôi vào lớp một, cha được một hộ chuyên nuôi cá làng bên mời đi canh hồ cá, mỗi tháng lương 50 tệ. Mẹ vẫn đi làm ruộng dưới sự chỉ bảo của bà, chủ yếu là đi cắt cỏ lợn, mẹ cũng không còn gây ra vụ rầy rà nào lớn nữa. Nhớ một ngày mùa đông đói rét năm tôi học lớp ba, trời đột ngột đổ mưa, bà nội sai mẹ mang ô cho tôi. Có lẽ trên đường đến trường tôi mẹ đã ngã ì oạch mấy lần, toàn thân trông như con khỉ lấm bùn, mẹ đứng ở ngoài cửa sổ lớp học nhìn tôi cười ngớ ngẩn, miệng còn gọi tôi: "Thụ... ô...".
Có mấy đứa bạn tôi cười khúc khích, tôi như ngồi trên bàn chông, oán hận mẹ khủng khiếp, hận mẹ không biết điều, hận mẹ làm tôi xấu hổ, càng hận thằng Hỷ cầm đầu trêu chọc.
Trong lúc nó còn đang khoa trương bắt chước mẹ, tôi chộp cái hộp bút trước mặt, đập thật mạnh cho nó một phát, nhưng bị thằng Hỷ tránh được. Nó xông tới bóp cổ tôi, chúng tôi giằng co đánh nhau. Tôi nhỏ con, vốn không phải là đối thủ của nó, bị nó dễ dàng đè xuống đất. Lúc này, chỉ nghe một tiếng "vút" kéo dài từ bên ngoài lớp học, mẹ giống như một đại hiệp "bay" ào vào, một tay tóm cổ thằng Hỷ, đẩy ra tận ngoài cửa lớp. Ai cũng bảo người điên rất khỏe, thật sự đúng là như vậy. Mẹ dùng hai tay nhấc bổng thằng bắt nạt tôi lên trên không trung, nó kinh sợ kêu khóc gọi bố mẹ, một chân béo ị khua khoắng đạp loạn xạ trên không trung. Mẹ không thèm để ý, vứt nó vào ao nước cạnh cổng trường, rồi mặt thản nhiên, mẹ đi ra.
Mẹ vì tôi gây ra đại họa, mẹ lại làm như không có việc gì xảy ra. Trước mặt tôi, mẹ lại có vẻ khiếp nhược, nhìn tôi vẻ muốn lấy lòng. Tôi hiểu ra đây là tình yêu của mẹ, dù đầu óc mẹ không tỉnh táo, thì tình yêu của mẹ vẫn tỉnh táo, vì con trai của mẹ bị người ta bắt nạt.
Lúc đó tôi không kìm được kêu lên: "Mẹ!" đây là tiếng gọi đầu tiên kể từ khi tôi biết nói. Mẹ sững sờ cả người, nhìn tôi rất lâu, rồi y hệt như một đứa trẻ con, mặt mẹ đỏ hồng lên, cười ngớ ngẩn.
Hôm đó, lần đầu tiên hai mẹ con tôi cùng che một cái ô về nhà. Tôi kể sự tình cho bà nội nghe, bà nội sợ rụng rời ngã ngồi lên ghế, vội vã nhờ người đi gọi cha về.
Cha vừa bước vào nhà, một đám người tráng niên vạm vỡ tay dao tay thước xông vào nhà tôi, không cần hỏi han trắng đen gì, trước tiên đập phá mọi bát đũa vò hũ trong nhà nát như tương, trong nhà như vừa có động đất cấp chín. Ðây là những người do nhà thằng Hỷ nhờ tới, bố thằng Hỷ hung hãn chỉ vào cha tôi nói:
- Con trai tao sợ quá đã phát điên rồi, hiện đang nằm nhà thương. Nhà mày mà không mang 1000 tệ trả tiền thuốc thang, tao cho một mồi lửa đốt tan cái nhà mày ra.
Một nghìn tệ? Cha đi làm một tháng chỉ 50 tệ! Nhìn những người sát khí đằng đằng nhà thằng Hỷ, cha tôi mắt đỏ lên dần, cha nhìn mẹ với ánh mắt cực kỳ khủng khiếp, một tay nhanh như cắt dỡ thắt lưng da, đánh tới tấp khắp đầu mặt mẹ. Một trận lại một trận, mẹ chỉ còn như một con chuột khiếp hãi run rẩy, lại như một con thú săn đã bị dồn vào đường chết, nhảy lên hãi hùng, chạy trốn, cả đời tôi không thể quên tiếng thắt lưng da vụt lạnh lùng lên thân mẹ và những tiếng thê thiết mẹ kêu.
Sau đó phải trưởng đồn cảnh sát đến ngăn bàn tay bạo lực của cha. Kết quả hoà giải của đồn cảnh sát là: Cả hai bên đều có tổn thất, cả hai không nợ nần gì nhau cả. Ai còn gây sự sẽ bắt luôn người đó. Ðám người đi rồi, cha tôi nhìn khắp nhà mảnh vỡ nồi niêu bát đũa tan tành, lại nhìn mẹ tôi vết roi đầy mình, cha tôi bất ngờ ôm mẹ tôi vào lòng khóc thảm thiết.
- Mẹ điên ơi, không phải là tôi muốn đánh mẹ, mà nếu như tôi không đánh thì việc này không thể dàn xếp nổi, nhà mình làm gì có tiền mà đền cho người. Bởi nghèo khổ quá mà thành họa đấy thôi!
Cha lại nhìn tôi nói:
- Thụ, con phải cố mà học lên đại học. Không thì, nhà ta cứ bị người khác bắt nạt suốt đời, nhé!
Tôi gật đầu, tôi hiểu…
Mùa hè năm 2000, tôi thi đỗ vào trung học với kết quả xuất sắc. Bà nội tôi vì làm việc cực nhọc cả đời mà mất trước đó, gia cảnh ngày càng khó khăn hơn. Cục Dân Chính khu tự trị Ân Thi (Hồ Bắc) xếp nhà tôi thuộc diện đặc biệt nghèo đói, mỗi tháng trợ cấp 40 tệ. Trường tôi học cũng giảm bớt học phí cho tôi, nhờ thế tôi mới có thể học tiếp.
Vì học nội trú, bài vở nhiều, tôi rất ít khi về nhà. Cha tôi vẫn đi làm thuê 50 tệ một tháng, gánh tiếp tế cho tôi đặt lên vai mẹ, không ai thay thế được. Mỗi lần bà thím nhà bên giúp nấu xong thức ăn, đưa cho mẹ mang đi. Hai mươi ki lô mét đường núi ngoằn ngoèo ruột dê làm khổ mẹ phải tốn sức ghi nhớ đường đi, gió tuyết cũng vẫn đi. Và thật là kỳ tích, hễ bất cứ việc gì làm vì con trai, mẹ đều không điên tí nào. Ngoài tình yêu mẫu tử ra, tôi không còn cách giải thích nào khác. Y học cũng nên giải thích khám phá hiện tượng này.
27/4/2003, lại là một Chủ nhật, mẹ lại đến, không chỉ mang đồ ăn cho tôi, mẹ còn mang đến hơn chục quả đào dại. Tôi cầm một quả, cắn một miếng, cười hỏi mẹ:
- Ngọt quá, ở đâu ra?
Mẹ nói:
- Tôi... tôi hái...
không ngờ mẹ tôi cũng biết hái cả đào dại, tôi chân thành khen mẹ:
- Mẹ, mẹ càng ngày càng tài giỏi!.
Mẹ cười hì hì.
Trước lúc mẹ về, tôi theo thói quen dặn dò mẹ phải cẩn thận an toàn, mẹ ờ ờ trả lời. Tiễn mẹ xong, tôi lại bận rộn ôn tập trước kỳ thi cuối cùng của thời phổ thông. Ngày hôm sau, khi đang ở trên lớp, bà thím vội vã chạy đến trường, nhờ thầy giáo gọi tôi ra ngoài cửa. Thím hỏi tôi, mẹ tôi có đến đưa tiếp tế đồ ăn không? Tôi nói đưa rồi, hôm qua mẹ về rồi. Thím nói:
- Không, mẹ mày đến giờ vẫn chưa về nhà!
Tim tôi thót lên một cái, mẹ tôi chắc không đi lạc đường? Chặng đường này mẹ đã đi ba năm rồi, có lẽ không thể lạc được. Thím hỏi:
- Mẹ mày có nói gì không?
Tôi bảo không, mẹ chỉ cho cháu chục quả đào tươi. Thím đập hai tay:
- Thôi chết rồi, hỏng rồi, có lẽ vì mấy quả đào dại rồi!
Thím kêu tôi xin nghỉ học, chúng tôi đi men theo đường núi về tìm. Ðường về quả thực có mấy cây đào dại, trên cây chỉ lơ thơ vài quả cọc, bởi nếu mọc ở vách đá mới còn giữ được quả. Chúng tôi cùng lúc nhìn thấy trên thân cây đào có một vết gãy cành, dưới cây là vực sâu trăm thước. Thím nhìn tôi rồi nói:
- Chúng ta đi xuống khe vách đá tìm!
Tôi nói:
- Thím, thím đừng doạ cháu....
Thím không nói năng kéo tôi đi xuống vách núi...
Mẹ nằm yên tĩnh dưới khe núi, những trái đào dại vương vãi xung quanh, trong tay mẹ còn nắm chặt một quả, máu trên người mẹ đã cứng lại thành đám màu đen nặng nề. Tôi đau đớn tới mức ngũ tạng như vỡ ra, ôm chặt cứng lấy mẹ, gọi:
- Mẹ ơi, Mẹ đau khổ của con ơi! Con hối hận đã nói rằng đào này ngọt! Chính là con đã lấy mạng của mẹ... Mẹ ơi, mẹ sống chẳng được hưởng sung sướng ngày nào...
Tôi sát đầu tôi vào khuôn mặt lạnh cứng của mẹ, khóc tới mức những hòn đá dại trên đỉnh núi cũng rớt nước mắt theo tôi.
Ngày 7/8/2003, một trăm ngày sau khi chôn cất mẹ, thư gọi nhập học dát vàng dát bạc của Ðại học Hồ Bắc đi xuyên qua những ngả đường mẹ tôi đã đi, chạy qua những cây đào dại, xuyên qua ruộng lúa đầu làng, "bay" thẳng vào cửa nhà tôi.
Tôi gài lá thư đến muộn ấy vào đầu ngôi mộ cô tịch của mẹ:
"MẸ, con đã có ngày mở mặt mở mày rồi, MẸ có nghe thấy không? MẸ có thể ngậm cười nơi chín suối rồi!".
-
Kính thưa ban tổ chức hội thi, ban giám khảo, quý vị đại biểu cùng toàn thể các bạn học sinh thân mến!
Em tên là... Hôm nay rất vinh dự khi em thay mặt cho tập thể ... tham dự hội thi kể chuyện theo sách.
Lời đầu tiên, cho phép em xin được gửi tới ban tổ chức hội thi, ban giám khảo, quý vị đại biểu cùng toàn thể các bạn học sinh lời chúc sức khỏe và lời chào trân trọng nhất, chúc hội thi thành công tốt đẹp.
Thưa toàn thể hội thi, chủ đề chiến tranh, cách mạng luôn là chủ đề được người viết quan tâm và thể hiện dưới mọi hình thức, có nhiều sáng tác đã mang được hơi thở sống động của cuộc chiến tranh đến bạn đọc, có giá trị cao về mặt nghệ thuật. Chuyện tình trong chiến tranh nói về chuyện tình yêu của người lính, những người đã cống hiến toàn bộ tuổi thanh xuân của mình cho cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Trong trái tim nhiệt huyết của tuổi trẻ luôn có một phần dành cho tình yêu đôi lứa và cũng chính tình yêu ấy là động lực tinh thần, là điểm tựa của người lính trên mặt trận cũng như khi về với đời thường.
Thật may mắn, trong một lần tìm đọc trong thư viện của trường.... em đã tìm được cuốn sách "Chuyện tình trong chiến tranh" của NXB Quân đội Nhân Dân Việt Nam năm 2012. Em đã đọc và thật sự cảm động với câu chuyện có thật về anh thương binh và người vợ liệt sĩ. Chuyện kể rằng, đó là vợ chồng ông Bùi Xuân Giáp sinh năm 1946 và bà Nguyễn Thị Thu sinh năm 1952, ngụ khối Vĩnh Xuân, phường Đông Vĩnh, TP. Vinh, Nghệ An. Thời trai trẻ, ông Giáp lên đường nhập ngũ và chiến đấu tại chiến trường Long An, thuộc lực lượng đặc công. Rời xa gia đình, mang trong mình trái tim nhiệt huyết của tuổi trẻ, ông Giáp đã chiến đấu rất anh dũng. Và rồi trong một trận càn của địch.... Đùng... khi che chở cho đồng đội của mình, ông Giáp đã bị thương ở vùng đầu và chân. Khiến cho 1 chân ông đi cà nhắc và vết đạn ở đầu khiến ông đau nhói lúc trái gió trở trời.
Năm 1975, khi thương binh hạng 2/4, mất sức 61% trở về địa phương. Tại đây, ông được phân công công tác tại công ty quản lí nhà đất TP. Vinh, Nghệ An. Bị địch bắn, sức khỏe yếu nên ông không dám mở lòng đi tìm hạnh phúc riêng của mình. Gần nhà ông, có bà Nguyễn Thị Thu và bà Thu có một người chồng là ông Nguyễn Viết Dư, vợ chồng ông bà sinh sống được đúng 27 ngày thì ông Dư lên đường nhập ngũ. Năm 1973, bà Thu nhận được tin ông Dư đã hy sinh ngoài chiến trường. Từ đó, người phụ nữ ấy vẫn ở vậy, phụng dưỡng bố mẹ chồng và chăm nuôi 7 đứa em. Không muốn đứa con dâu của mình vướng bận chuyện con cái, phải ở vậy suốt đời, bố mẹ chồng đánh tiếng khuyên bà Thu nên đi tiếp bước nữa. Nhưng người phụ nữ ấy nhất quyết không chịu.
Bà nói với bố mẹ chồng: "Dù khoảng thời gian con sinh sống với anh Dư rất ít nhưng con cũng là vợ của anh ấy, là con dâu của bố mẹ, con sẽ ở vậy, thờ chồng lo nhan khói". Trước sự bướng bỉnh của cô con dâu hiếu thảo, bộ mẹ chồng đành tự đi tìm chồng cho cô. Người mà họ nhắm đến không ai khác đó chính là ông Giáp. Hai người họ gặp nhau, đồng cảm rồi mến nhau. Năm 1976, cả 2 chính thức về chung một nhà. Có những thời gian, ông Giáp còn thay bà Thu gánh vác công việc nội trợ, gia đình của người phụ nữ, để bà Thu yên tâm rong ruổi trên những con đường tận Quảng Nam, Đà Nẵng để tìm hài cốt người chồng cũ, làm trọn chữ nghĩa, chữ tình với người chồng đã khuất.
Năm 2012, phần mộ của ông Nguyễn Viết Dư được tìm thấy, từ đó ông bà tận tình lo nhan khói cho liệt sĩ Nguyễn Viết Dư. Bước ra từ cuộc chiến tranh, tuy chỉ có đôi bàn tay trắng nhưng nghị lực của người chiến sĩ và tình yêu thương gia đình, vợ con, ông Giáp đã mạnh dạn đấu thầu mảnh đất rộng 2,5 ha làm mô hình ao - chuồng - trại và đạt hiệu quả kinh tế cao. Nhưng rồi, một biến cố bất ngờ ập đến khiến ông Giáp không kịp trở tay. Ông nói "Trận dịch cúm gia cầm vừa rồi ập vào khiến tôi như ngồi trên đống lửa. Không giống như bao người im lặng đem gia cầm chết đi bán tống, bán tháo. Khi vừa phát hiện mầm bệnh tôi liền thông báo lên cơ quan chức năng xuống lập biên bản tiêu hủy toàn bộ số gia cầm trong trang trại của tôi, thiệt hại lần đó ước chừng 11 tỷ đồng".
Nhưng ông Giáp không buông xuôi, ông nói tiếp: "Hơn 15 năm làm nghề, đây là lần thất bại lớn nhất nhưng đối với tôi, có sức khỏe thì còn làm việc".
Thưa toàn thể hội thi, qua câu chuyện trên cho ta thấy được tình yêu thương của người lính thật cao cả. Họ yêu quê hương, đất nước, bất chấp tất cả bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Khi hòa bình đến, dù mang trong mình những mất mác của chiến tranh nhưng những người thương binh tàn nhưng không phế vẫn là những chiến sĩ kiên trung trên mặt trận xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Qua câu chuyện anh thương binh và người vợ liệt sĩ, không chỉ đơn thuần là tình yêu quê hương, đất nước mà còn thể hiện trách nhiệm, cái tình, cái nghĩa của chúng ta đối với người thương binh. Chính vì vậy, khi còn sống chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành những tình cảm đặc biệt đối với những đồng chí thương binh. Bác nói: "Thương binh là những người hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ tổ quốc. Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn những đồng chí ấy".
Thưa toàn thể hội thi, qua câu chuyện trên, em thiết nghĩ mỗi học sinh trường.... được sống và học tập trong môi trường quân đội chúng ta càng thấm nhuần hơn về đạo lí Uống nước nhớ nguồn. Ngày nay, chúng em thật vinh dự và tự hào khi được sống, học tập trong hòa bình, được ăn ngon, mặc đẹp. Vì vậy, chúng em cần phải biết kính trọng và gìn giữ tận sâu trong đáy lòng, chúng em xin hứa sẽ học tập thật tốt, noi theo đức tính kiên trung của người lính để xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng giàu đẹp hơn, như lời bác Hồ đã căn dặn: "các Vua Hùng đã có công dựng nước bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước".