Top 10 Bài cảm nhận nhân vật chú bé Hồng trong đoạn trích "Trong lòng mẹ" của Nguyên Hồng hay nhất
Tình mẫu tử luôn là thiêng liêng và ấm áp nhất. Những đứa con dù hiền hay dữ, dù sang hay hèn thì trong trái tim mình đều có tình yêu thương bao la dành cho mẹ ... xem thêm...– người sinh thành, nuôi dưỡng và luôn dành cho ta những điều tốt đẹp nhất. Tôi đã đọc nhiều câu chuyện, nhiều vần thơ viết về tình mẹ con, nhưng tôi thực sự bị ám ảnh với hồi kí Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng. Đặc biệt in sâu đậm dấu ấn trong tôi là hình ảnh cậu bé Hồng qua đoạn trích "Trong lòng mẹ". Dưới đây là bài cảm nhận nhân vật chú bé Hồng trong đoạn trích "Trong lòng mẹ" của Nguyên Hồng hay nhất
-
Nhà thơ Đào Cảng đã nhận xét về nhà văn Nguyên Hồng “anh bình dị đến như là lập dị áo quần ư? Rách vá có sao đâu!”
“dễ xúc động, anh thường hay dễ khóc,
Trải đau nhiều nên thương cảm nhiều hơn”.
Những câu thơ trên đã khái quát được những nét chính yếu trong phong cách sinh hoạt và tâm hồn của nhà văn Nguyên Hồng. Chính vì có một tâm hồn dào dạt cảm xúc như thế, cùng với phong cách nghệ thuật độc đáo, nên tác phẩm những ngày thơ ấu của nguyên hồng đã để lại dấu ấn đậm nét trong tâm hồn bạn đọc. Hình ảnh chú bé Hồng ở trích đoạn trong lòng mẹ hiện lên với hoàn cảnh đáng thương và nhiều phẩm chất cao đẹp.
Trước hết, chúng ta thấy chú bé Hồng gặp nhiều nỗi đau: đau vì cha mất, tang cha hãy còn đội trên đầu; đau vì mẹ quá cùng quẫn đã phải bỏ con tha hương cầu thực, không có cơ hội viết thư hay gởi quà cho con; đau vì phải sống đói rách, thiếu thốn, bơ vơ bên những người họ hàng giàu có nhưng tấm lòng nghèo nàn. Nhưng nỗi đau cực đại của cuộc đời chú bé Hồng là thiếu tình thương, đặc biệt là tình thương bao la của người mẹ hiền. Từ lúc mẹ bé Hồng xa xứ, chú chưa bao giờ nhận được tin tức về mẹ. Bé Hồng luôn tương nhớ đến hình bóng thân yêu của mẹ mà nước mắt cứ lã chã tuôn rơi. Biết được tâm lí ấy của bé Hồng, bà cô của bé chẳng những không yêu mến, cảm thông, chia sẻ với Hồng mà còn cố tình khơi gợi nỗi đau để hành hạ, tra tấn Hồng về mặt tinh thần. Bà cô tỏ vẻ quan tâm cháu: “Hồng! Mày muốn ra Thanh Hoá chơi với mẹ mày không?”.
Tuy bé Hồng còn nhỏ nhưng bằng sự cảm nhận tinh tế của mình cũng hiểu bà cô là một con người giả dối, nhẫn tâm, độc ác. Bé Hồng nhận xét: “cô tôi chỉ có ý gieo rắc vào đầu óc tôi những hoài nghi để tôi khinh miệt và ruồng rẫy mẹ tôi, một người đàn bà đã bị cái tội là góa chồng, nợ nần, cùng túng quá phải bỏ con cái đi tha hương cầu thực”. Bà cô càng nói xấu mẹ bao nhiêu bé Hồng càng đau xót, thông cảm và yêu mẹ bấy nhiêu. Lòng bé thắt lại, khóe mắt bé “cay cay”, nước mắt bé “ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hòa đầm đìa ở cằm và ở cổ”. Hành động bé “cười dài trong tiếng khóc” là đã đi đến đỉnh điểm của nỗi đau. Bé Hồng kịch liệt công kích cái xã hội đầy hủ tục, bất công, xấu xa, đã xô đẩy mẹ bé vào bước đường cùng. Xã hội ấy không cho phép người phụ nữ chưa đoạn tang chồng mà đã có chửa. Bé vừa khóc nghẹn ngào vừa nghĩ rằng: “giả những hủ tục đã đầy đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thuỷ tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kì nát vụn mới thôi”.
Thế rồi sau chuỗi ngày dài đầy đau khổ, chú bé Hồng cũng có được hạnh phúc lớn lao: được gặp lại mẹ và trở về “trong lòng mẹ.” Mẹ bé Hồng về trong ngày giỗ đầu của chồng. Sau buổi học, “chợt thoáng thấy một bóng người ngồi trên xe kéo giống mẹ” Hồng gọi mẹ trong trạng thái “bối rối”, nửa thực nửa mê: “mợ ơi! Mợ ơi! Mợ ơi! ...” Giả sử người ấy không phải là mẹ Hồng, bé sẽ hổ thẹn, tủi cực và cay đắng chẳng khác “cái ảo ảnh của một dòng nước trong suốt chảy dưới bóng râm đã hiện ra trước con mắt gần rạn nứt của người khách bộ hành ngã gục giữa sa mạc”. Hồng tự ví mình là một “khách bộ hành” giữa chốn sa mạc mênh mông, thiếu vắng người qua lại. Mà ở sa mạc, khó có thể có nước. Do đó, lữ khách khao khát nước đến cháy lòng giống như chú bé Hồng chờ mong khắc khoải từng phút giây để gặp lại một bóng hình thương yêu nhất của đời mình.
Bé Hồng “thở hồng hộc, trán đẫm mồ hôi”, “ríu cả hai chân lại” khi đuổi kịp mẹ và trèo lên xe Hồng oà khóc nức nở. Mẹ bé cũng sụt sùi theo. Hai mẹ con gặp nhau trong những giọt lệ mừng mừng, tủi tủi. Sau những phút giây cuống quýt, chú bé Hồng định thần lại và nhận ra vẻ đẹp phúc hậu của mẹ với gương mặt “tươi sáng”, ''đôi mắt trong và nước da mịn, làm nổi bật màu hồng của hai gò má". Trong sung sướng, ngây ngất, bé Hồng cảm nhận mẹ đẹp đến hai lần. Bé Hồng được hồi phục về tinh thần sau thời gian tâm lí bị đè nén. Bé thấy “những cảm giác ấm áp đã bao lâu mất đi bỗng lại man man khắp da thịt”. Đồng thời chú nhận ra hơi quen thuộc của mẹ như thuở còn nằm nôi: “hơi quần áo mẹ, những hơi thở ở khuôn miệng xinh xắn nhai trầu phả ra lúc đó thơm tho lạ thường”.
Hơn thế nữa, bé hồng còn tập trung cao độ mọi giác quan của con người để miêu tả sự tận hưởng những phút giây cực điểm khi được nằm trong lòng mẹ: “phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trán, xuống cằm, và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy người mẹ có một êm dịu vô cùng”. Nhà văn Thạch Lam gọi cảm giác này là “những rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại”. Chính vì vậy mà bé Hồng từ đầu trường học về đến nhà đã không còn nhớ mẹ chú đã hỏi những gì và chú đã trả lời mẹ những câu gì. Đó cũng là những cảm xúc tự nhiên của con người khi được nhìn thấy bóng dáng mĩ miều của hạnh phúc. Đối với bé Hồng, dù hạnh phúc đơn sơ nhưng cũng là hạnh phúc. Có thể nói rằng, cảnh hai mẹ con Hồng gặp nhau đẹp hơn những thước phim nóng tại trường quay. Dù diễn viên nào nổi tiếng cũng khó diễn được vai này. Bởi lẽ, cảnh ấy hiện thực hơn cả hiện thực. Có nhà nghiên cứu lí luận văn học cho rằng: nhân vật trong tác phẩm nhiều khi còn thực hơn cả người thực. Nhân vật chú bé Hồng là điển hình cho nhận xét ấy.
Tóm lại, hoàn cảnh éo le và tấm lòng yêu thương mẹ vô hạn của bé Hồng đã khiến còn tim của em rung động mãnh liệt. Em rất căm phẫn cái xã hội xấu xa, đê tiện mà bé hồng đã sống - một xã hội thực dân nửa phong kiến bất công, chỉ xem tiền là trên hết. Cái xã hội ấy đầy rẫy những hủ tục, vô nhân đạo, tàn nhẫn đến độ “chuông nhà thờ chỉ reo lên vì lũ tây đầm” và bọn nhà giàu “khệnh khạng, bệ vệ, hớn hở'' đêm đông thường giá lạnh nhưng tình họ hàng trong xã hội ấy còn lạnh giá hơn cả đêm đông. Ngày nay, chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta rất ưu việt và tràn đầy tinh thần nhân đạo. Quyền phụ nữ, 'quyền trẻ em được pháp luật bảo vệ thỏa đáng. Chắc có lẽ không còn những đứa trẻ bất hạnh như bé Hồng.
-
Vũ trụ có nhiều kỳ quan, nhưng kỳ quan tuyệt phẩm nhất vẫn là trái tim người mẹ”. Trên thế gian này, không có thứ tình cảm nào cao quý và thiêng liêng hơn tình mẫu tử. Là một đứa con có tình yêu mẹ sâu sắc, Nguyên Hồng đã thực sự tạo nên những trang viết thấm thía và cảm động về tình mẫu tử. Qua đoạn trích “Trong lòng mẹ”, ta lại được sống trong tình cảm ấy một lần nữa khi cảm nhận tình yêu da diết của bé Hồng dành cho mẹ.
Bé Hồng thương yêu mẹ sâu sắc. Mặc cho hoàn cảnh cha nghiện ngập mà chết, mẹ đi tha hương cầu thực, sống với bà cô cay nghiệt, cậu càng khao khát tình yêu của mẹ nhiều hơn. Yêu mẹ, Hồng thương mẹ nhiều hơn và cảm thông với những hủ tục mà người phụ nữ bất hạnh phải chịu: “Giá những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi như một hòn đá hay mẩu thủy tinh, đầu mẩu gỗ tôi quyết vồ lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kì nát vụn mới thôi”.
Trong những điều cay đắng mà bé Hồng phải chịu không chỉ có nỗi đau, nó còn là niềm căm hờn cái xấu, cái ác đang chà đạp lên tình mẫu tử thiêng liêng của con người.Tình yêu mẹ mãnh liệt của chú bé Hồng bỗng trào dâng trong giây phút được gặp lại mẹ.
Hình ảnh người mẹ hiện lên qua đôi mắt ngày đêm mong nhớ của chú vẫn đẹp đẽ và thân thương lạ lùng: “gương mặt vẫn tươi sáng, đôi mắt trong và nước da mịn làm nổi bật màu hồng của hai gò má. Hơi quần áo mẹ tôi và hơi thở ở khuôn miệng xinh xắn nhai trầu phả ra lúc đó thơm tho lạ thường”.
Khao khát gặp lại mẹ còn thể hiện ở tiếng gọi bối rối: “Mợ ơi, mợ ơi” và bước chạy “ríu cả chân lại”. Và khi biết đó là mẹ mình thật thì cậu khóc nức nở bởi sung sướng và hạnh phúc. Giây phút được ở trong lòng mẹ có lẽ đã khỏa lấp biết bao những tủi hờn, thua thiệt của bé Hồng bấy lâu nay, cậu cảm thấy “ấm áp, mơn man khắp da thịt”, “không nhớ mẹ đã hỏi gì mình đã đáp gì”.
Đó là cảm giác choáng ngợp trong hạnh phúc vô biên mà chỉ những ai phải trải qua những ngày thiếu vắng mẹ mới cảm nhận được. Ở trong lòng mẹ, được mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm và gãi rôm ở sống lưng cho, Hồng lại trở về làm một chú bé con ngây thơ, trong trắng, luôn chờ mong tình yêu thương từ mẹ. Thời khắc ấy, Hồng đã quên đi tất cả những cay đắng , tủi cực, những lời xúc phạm của bà cô.
Bé Hồng đã được sống những giờ phút thần tiên hiếm hoi nhất, giản dị, mơ mộng mà cũng vô cùng đẹp đẽ, thiêng liêng. Chúng ta, những người may mắn có mẹ ở bên yêu thương, che chở càng phải cảm thông nhiều hơn với những số phận bất hạnh, kém may mắn như bé Hồng.
Qua tâm trạng của chú bé Hồng và niềm khao khát tình thương của cậu, ta phần nào thấu hiểu về những mảnh đời bé nhỏ đang phải gánh chịu nỗi đau mất mẹ, xa mẹ. Dù có được xã hội, mọi người quan tâm đến đâu, những em bé ấy cũng không thể nào khỏa lấp nỗi cô đơn và sự thiếu vắng tình thương của mẹ. Nỗi đau thiếu mẹ sẽ trở thành vết sẹo khó lành trong lòng họ, họ thèm làm sao một cử chỉ âu yếm vuốt ve, một ánh mắt trìu mến yêu thương, những lời hỏi han ân cần, dịu dàng của mẹ.
Vì vậy, khi chúng ta nghiễm nhiên được hưởng những điều ấy, hãy trân trọng từng giờ phút được ở bên mẹ, yêu thương và kính trọng mẹ nhiều hơn. Tình cảm giữa bé Hồng và mẹ đã làm nên một bức tranh tuyệt đẹp về tình mẫu tử. Bằng chính cuộc đời thực của mình, tình yêu thương và lòng nhân ái, Nguyên Hồng đã đánh thức tình yêu mẹ sâu sắc vẫn luôn cuộn trào mãnh liệt trong lòng mỗi người.
-
Trong chúng ta, tình mẫu tử luôn là thiêng liêng và ấm áp nhất. Những đứa con dù hiền hay dữ, dù sang hay hèn thì trong trái tim mình đều có tình yêu thương bao la dành cho mẹ – người sinh thành, nuôi dưỡng và luôn dành cho ta những điều tốt đẹp nhất. Tôi đã đọc nhiều câu chuyện, nhiều vần thơ viết về tình mẹ con, nhưng tôi thực sự bị ám ảnh với hồi kí Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng. Đặc biệt in sâu đậm dấu ấn trong tôi là hình ảnh cậu bé Hồng qua đoạn trích "Trong lòng mẹ".
Đọc những dòng đầu tiên của đoạn trích Trong lòng mẹ, tôi thực sự thương cảm và xót xa cho số phận cậu bé Hồng : “Chú bé Hồng ra đời là kết quả của cuộc hôn nhân miễn cưỡng không tình yêu ; chú lớn lên trong không khí giả dối, lạnh lẽo của một gia đình không hạnh phúc”. Ngay từ những phút giây bắt đầu đón nhận sự sống, chú bé Hồng đã gặp những bất hạnh.
Là một đứa trẻ lẽ ra cậu bé Hồng phải được sống trong sự đùm bọc, yêu thương của bố mẹ và gia đình, nhưng trái lại em phải “sống bơ vơ giữa sự ghẻ lạnh cay nghiệt của họ hàng.” vì bố chết, mẹ bỏ đi “tha phương cầu thực”. Sống giữa gia đình nhưng cậu bé Hồng giống như một đứa trẻ mồ côi, và hơn thế em còn phải chịu đựng sự hắt hủi, chì chiết của người thân, đặc biệt là bà cô.
Trong đoạn trích, nhà văn Nguyên Hồng đã rất tinh tế khi miêu tả diễn biến tâm trạng của cậu bé Hồng : từ nỗi đau đớn buốt lạnh trước những lời đay nghiến của bà cô đến nỗi vui sướng vỡ oà khi gặp lại mẹ, và bao trùm lên tất cả là tình yêu mẹ vô bờ bến của chú bé.
Dù mới chỉ là một cậu bé nhưng Hồng sớm phải gánh chịu sự đối xử cay nghiệt của người thân, đó chính là sự nhẫn tâm của bà cô. Cho dù cả đoạn trích không nhắc đến sự đánh đập bằng đòn roi nhưng cách đối xử, lời lẽ mỉa mai của người cô còn khiến cho chú bé đau đớn hơn gấp trăm nghìn lần.
“Hồng ! Mày có muốn vào Thanh Hóa chơi với mẹ mày không ?”, nghe qua ta tưởng đây là lời nói thể hiện sự quan tâm, muốn cháu với bớt nỗi nhớ mẹ nhưng thực chất đây là những lời nói kháy, tàn độc : “nhận ra những ý nghĩa cay độc trong giọng nói và trên nét mặt khi cười rất kịch của cô tôi, tôi cúi đầu không đáp. Vì tôi biết rõ, nhắc đến mẹ tôi, cô tôi chỉ cố ý gieo rắc và đầu óc những hoài nghi để tôi khinh miệt và ruồng rẫy mẹ tôi”.
Trước lời nói đầy thâm ý của bà cô, trong lòng cậu bé Hồng lại càng trào dâng lên tình yêu thương mãnh liệt dành cho mẹ “Nhưng đời nào tình yêu thương và lòng kính mến mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến.”. Cậu ra sức bảo vệ mẹ, cố gắng cười đáp lại dù trong thâm tâm đang rất đau đớn, tủi cực “Cuối năm thế nào mợ cháu cũng về”. Cậu bé trả lời bà cô và có lẽ cũng là tự an ủi mình, cậu bé luôn có niềm tin mãnh liệt rằng mẹ sẽ về và không bao giờ bỏ rơi cậu.
Tuy nhiên, bà cô của chú vẫn tiếp tục đay nghiến “Sao lại không vào ? Mợ mày phát tài lắm, có như dạo trước nữa đâu !”. Tâm hồn non nớt, ngây thơ của chú bé dường như đã quá sức chịu đựng “lòng tôi càng thắt lại, khóe mắt tôi đã cay cay”. Nhà văn đã kết hợp miêu tả đan xen giữa lời nói bà cô và tâm trạng chú bé, mỗi lời bà cô phát ra là một lần khiến cho cậu bé trở nên đau đớn hơn.
Tính chất chì chiết đay nghiến trong từng câu nói cứ tăng dần, để rồi lên đến cao trào khi bà cô nói : “Mày dại quá, cứ vào đi, tao chạy cho tiền tàu. Vào mà bắt mợ mày may vá sắm sửa cho và thăm em bé chứ”. Từng lời nói như những nhát dao cứa vào trái tim non nớt, khiến cậu bé phải khóc “ròng ròng”.
Hồng khóc không phải vì ghen tị với em bé mà “vì thương mẹ tôi và căm tức sao mẹ tôi lại vì sợ hãi những thành kiến tàn ác mà xa lìa anh em tôi, để sinh nở một cách giấu giếm”. Người đọc hiểu rằng, dù mới chỉ là một cậu bé nhưng Hồng đã có những suy nghĩ chín chắn.
Tình yêu thương mẹ của cậu bé Hồng còn gắn liền với niềm căm tức, thù hận với những định kiến. Bởi lẽ cậu bé hiểu rằng chính những thành kiến tàn ác kia đã đẩy mẹ cậu vào cảnh “tha hương cầu thực”, mẹ con cậu phải chia lìa nhau. Trong nỗi đau uất ức, nghẹn ngào không thốt ra tiếng chú bé Hồng đã có một ước mơ “giá những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thuỷ tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kì nát vụn mới thôi”.
Nỗi căm tức, đau đớn của chú bé đã được nhà văn hình tượng hoá qua hình ảnh so sánh biểu cảm. Những cổ tục cũng lạnh lùng, sắc nhọn chẳng khác nào “hòn đá, cục thuỷ tinh”. Bên cạnh đó, biện pháp điệp “mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kì nát vụn mới thôi” khiến cho nhịp văn nhanh dần, mạnh mẽ thể hiện niềm căm tức tột độ của cậu bé Hồng.
Qua đó toát lên tình yêu thương mẹ cháy bỏng, chú bé sẵn sàng làm tất cả dù khó khăn, dù đau đớn để bảo vệ người mẹ kính yêu của mình. Suy nghĩ tâm trạng của Hồng khiến cho người đọc không khỏi ngậm ngùi, xót xa, thương cảm và khâm phục. Ta hiểu rằng, những thủ đoạn tàn nhẫn, những câu nói cay độc, phũ phàng của bà cô không thể lay chuyển suy nghĩ của bé Hồng về mẹ, trái lại nó càng khiến cho cậu yêu thương mẹ hơn.
Đọc đoạn trích Trong lòng mẹ, người đọc được trải qua các trạng thái cảm xúc đối lập nhau. Đọc đoạn đầu tiên, ta như đi vào một sa mạc khô cằn tình người, ở đó ta chỉ thấy sự chì chiết, đối xử cay nghiệt và nỗi đau của một chú bé nhưng kết thúc đoạn trích ta lại chìm ngập trong dòng suối mát lành của tình mẹ con ấm áp. Cho dù bà cô có cố tình chia lìa tình mẹ con thì với Hồng cậu luôn tin rằng mẹ cậu sẽ trở về và niềm tin đó đã trở thành sự thực: “Nhưng đến ngày giỗ đầu thầy tôi, tôi không viết thư gọi mẹ tôi cũng về”.
Để diễn tả niềm vui sướng của bé Hồng khi gặp mẹ, nhà văn đã miêu tả một cách cụ thể, chi tiết: “Chiều hôm đó, tan buổi học ở trường ra, tôi chợt thoáng thấy một bóng người ngồi trên xe kéo giống mẹ tôi. Tôi liền đuổi theo gọi bối rối : “Mợ ơi ! Mợ ơi ! Mợ ơi Những cụm từ như “thoáng thấy”, “liền đuổi theo”, “gọi bối rối” thể hiện sự cuống quýt, Vội vàng của chú bé. Ta hiểu rằng niềm mong chờ mẹ về luôn thường trực trong tâm trí của chú bé Hồng.
Tuy nhiên, giống như con chim bị thương sợ gặp phải cành cong, cậu bé Hồng chưa kịp vui sướng thì đã lo sợ, lo sợ nếu như đó là người khác thì sẽ thành “trò cười tức bụng” cho lũ bạn. Hình ảnh so sánh tinh tế, biểu cảm cái lầm đó. khác gì cái ảo ảnh của một dòng nước trong suốt chảy dưới bóng râm đã hiện ra trước con mắt gần rạn nứt của người bộ hành ngã gục giữa sa mạc” cho người đọc thấy tâm trạng mong đợi khắc khoải của cậu bé Hồng.
Hình ảnh người bộ hành “ngã gục giữa sa mạc” sẽ chính là hình ảnh của chú bé Hồng sẽ gục ngã giữa sa mạc của sự ghẻ lạnh, đay nghiến nếu như mẹ cậu không về. Câu chuyện được đẩy lên đến cao trào, người đọc cũng hồi hộp chờ đợi: liệu người đó có phải là mẹ cậu bé ? Và rồi, tất cả như được tháo bung ra “Xe chạy chầm chậm mẹ tôi cầm nón vẫy tôi mẹ tôi xoa đầu tôi hỏi, thì tôi oà lên khóc rồi cứ thế nức nở”.
Đó không còn là những giọt nước mắt tủi cực mà là những giọt nước mắt của niềm hạnh phúc vô bờ bến. Nhà văn đã viết nên những câu văn nhẹ nhàng để diễn tả tình mẹ con ấm áp. Trong lòng cậu bé Hồng giờ đây chỉ còn niềm vui sướng tột độ vì cậu thấy rằng mẹ mình không phải như những gì bà cô nói, mẹ vẫn tươi đẹp và “cảm giác ấm áp đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da thịt”.
Chú bé Hồng thấy mình cần bé lại để “lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm, mới thấy người mẹ có một êm dịu vô cùng”. Ở bên mẹ, Hồng không còn một chút đau đớn, tất cả những lời bà cô giờ trở nên vô nghĩa với cậu “câu nói ấy bị chìm đi ngay, tôi không mảy may nghĩ ngợi gì nữa.”. Tình mẹ bao la và ấm áp đã xua tan đi mọi băng giá, khổ đau, đem lại một niềm hạnh phúc tràn ngập.
Người đọc như thấy đâu đây sự mỉm cười mãn nguyện của nhà văn. Ông thực sự là nhà văn có trái tim ấm nóng, hiểu và cảm thông sâu sắc với những người có số phận bất hạnh ,đặc biệt là với trẻ em và phụ nữ. Trang văn của Nguyên Hồng nói chung và đoạn trích Trong lòng mẹ nói riêng thực sự là những trang văn thấm đượm tấm lòng nhân đạo của một nhà văn chân chính.
Đoạn trích Trong lòng mẹ khép lại nhưng đã gợi lên cho người đọc biết bao điều suy nghĩ: chúng ta sẽ làm gì để những tâm hồn non nớt, ngây thơ luôn được sống trong niềm yêu thương, hạnh phúc, chở che? Chúng ta làm gì để những giọt nước mắt đau đớn, tủi cực không còn lăn dài trên khuôn mặt thánh thiện của các em? Đó sẽ mãi là câu hỏi nhức nhối mà nhà văn gửi đến mỗi chúng ta. -
Nếu ai hỏi tôi: Tình cảm nào thiêng liêng cao đẹp nhất? Tôi xin trả lời là tình mẫu tử! Nếu ai hỏi tôi: Nhà văn Việt Nam nào viết về tình mẫu tử đẹp nhất? Tôi xin trả lời là Nguyên Hồng! Có phải chăng vì Nguyên Hồng là một người con thương mẹ tha thiết, nên ông đã nổi tiếng khi viết về mẫu thân mình? Vâng, chính tác phẩm Những ngày thơ ấu được Nguyên Hồng viết khi vừa tròn mười tám tuổi, đã đưa ông bước vào làng văn một cách chững chạc và vững chắc. Tác phẩm chính là một tập hồi kí về cuộc đời đầy đau khổ, sóng gió của nhà văn.
Bằng cách dẫn chuyện tài tình, tác giả đưa ta đến với gia đình bé Hồng, một gia đình khá giả nhưng bất hạnh. Bằng chứng là vào ngày sinh của chú bé, rất nhiều vị có máu mặt đến chúc mừng. Đồ lễ, đồ mừng chật ních cả nhà. Tưởng rằng bé Hồng sẽ mãi sống trong cảnh giàu sang, sung sướng, nhưng đâu ngờ cuộc đời em chìm ngập trong đau thương, khổ ải.
Có lẽ bất hạnh lớn nhất đối với Hồng là việc cha mẹ em lấy nhau chỉ vì ép buộc, không có hạnh phúc. "Sự trái ngược cay đắng đó tôi đã hiểu rõ rệt và thấm thía ngay từ năm tôi lên bảy, lên tám". Chính em cũng phải nói thế là gì! Còn cay đắng, xót xa nào hơn khi biết :người mẹ thỉnh thoảng lại mỉm cười êm ấm, dịu dàng", nhưng trong lòng thì "luôn luôn giá buốt, đau đớn, phiền muộn". Trong máu nhà thơ ấu của bé Hồng, tình cảm gia đình đã có cái gì đó gượng ép, cha mẹ sống với nhau mà như không có tình cảm, tất cả là vì đứa con chung, chính là Hồng. Và cũng ngay từ bé, Hồng đã nghe những lời đồn không mấy tốt đẹp về mẹ. Vì thế, trong suốt một thời gian dài, Hồng phải sống trong sự dằn vặt, phân vân, không biết ai đúng, ai sai. Rồi khi gia cảnh sa sút vì cái bàn đèn của bố Hồng, gia đình đã quyết định bán nhà. Tuy rằng đó là một sự mất mát lớn, nhưng Hồng là một chú bé rất giàu tình cảm. Những lời nói ngây thơ của em: Để con đi học rồi con xây lại nhà cho bà đã phần nào giảm bớt không khí nặng nề, u ám đang bao trùm lên gia đình Hồng. Mẹ thì buôn bán thua lỗ, thầy thì nghiện thuốc phiện, ngày ngày phải sống ăn bám vào vợ. Vậy đấy! Cái cuộc sống tưởng như sung sướng, nhàn hạ của Hồng, giờ trở nên nghèo túng, thiếu thốn. Mà không những em thiếu thốn về mặt sinh hoạt, vui chơi mà em còn thiếu một gia đình ấm cúng, thực sự trở thành chỗ dựa vững chắc cho tuổi ấu thơ của em. Người cha, chỗ dựa của cả gia đình, nay lại nghiện ngập, hút sách, sống ăn bám, đến nỗi phải cướp tiền của Hồng để mua thuốc hút! Thử hỏi rằng ai mà không xấu hổ, đau đớn khi có một người chồng, một người cha như vậy? Cuối cùng, thì cha Hồng, cả đời sống tối tăm, u uất, đã chết trong nghèo nàn, nghiện ngập.
Mẹ Hồng bao lâu khao khát yêu thương, đã phải chôn vùi tuổi thanh xuân trong cuộc hôn nhân không lối thoát, nay đã vùng lên, thoát khỏi sự cổ hủ của phong kiến đè nặng lên cuộc đời mình. Bà đi vào Thanh Hóa, bỏ lại bé Hồng bơ vơ, côi cút giữa sự ghẻ lạnh của những người họ hàng giàu có. Hồng phải chịu đựng những lời cay nghiệt, xấu xa từ phía họ nội giàu có. Hoàn cảnh làm em phải trở thành đứa trẻ lêu lổng, đói rách, luôn khao khát cuộc sống, một tình yêu thương đích thực. Thế mà cái mong muốn giản đơn ấy mãi mãi không thực hiện được. Đối với Hồng, cái cảnh của nhà thờ đêm Nô – en không có chỗ cho em, cho những con chiên bé nhỏ tìm sự che chở, ban phước của Chúa, mà chỉ dành cho những ông Tây, bà Đầm, những chức dịch, những kẻ quyền quý, khệnh khạng và bệ vệ. Khó khăn lắm em mới lên được vào, để có thể nhìn thấy bàn thờ. Rõ ràng cái xã hội thối tha bẩn thỉu ấy không phải là chỗ đứng của em. Nhưng biết làm sao được! Chúa đã ấn định cho cuộc đời Hồng một vực thẳm tăm tối, vô đáy. Cái vực thẳm ấy sẵn sàng nhấn chìm em, nếu em có một phút lỡ làng, quên đi bản chất hồn nhiên, ngây thơ, chân thật của mình.
Tình thương và hình ảnh của mẹ luôn ngời sáng trong tâm trí Hồng. Mặc dù sống hoàn cảnh như vậy, nhưng tâm hồn Hồng vẫn cứ là vì sao lấp lánh giữa bầu trời thăm thẳm. Trong tâm tư của em vẫn tồn tại hình ảnh một người cha dịu dàng, ngọt ngào; một người mẹ chỉ vì sợ hãi những thành kiến cổ hủ mà xa lìa các con, nhưng tình thương và hình ảnh của mẹ luôn ngời sáng trong tâm trí Hồng. Chính cuộc nói chuyện giữa Hồng, ngay cả chúng ta cũng phải công nhận rằng Hồng rất thông minh, tinh ý. Bởi với một đứa trẻ, một năm không được gặp mẹ, không nhận được một lá thư, một lời thăm hỏi âu yếm, không xin được mẹ một đồng quà thì khi bắt gặp câu hỏi (của người cô) có muốn vào chơi với mẹ hay không? Với tâm lý ngây thơ, trong sáng sẽ trả lời ngay là có, nhưng chợt nhận ra những điều không tốt đẹp trong câu nói ấy nên mới phản bác lại ý muốn dồn nén trong lòng từ bấy lâu nay của mình. Để có được cái chợt ấy quả là một quá trình quan sát lâu dài, được hình thành từ những việc xảy ra trong cuộc sống mà em quan sát và tiếp thu được. Những động cơ xấu, như lời bà cô, đã làm mất đi phần nào tính ngây thơ trong Hồng, để đến nỗi mỗi lời nói, mỗi hành động của em đều được cân nhắc, suy nghĩ kĩ càng. Trong em, sự độc ác của bà cô đã cho em một bài học về cách tính tốn của người lớn, đã biến em thành một người khôn ngoan, "phòng thù kẻ xấu" đã trở thành bản năng tự vệ, và vũ khí duy nhất của em, để bảo vệ cho danh dự của người mẹ thân yêu. Bởi ở cái xã hội của em, mọi người hầu như đều giả dối, ác độc. Đáng thương biết bao! Và tiếng cười của em khi trả lời bà cô: "Cháu không muốn vào" như gây cho người đọc cảm giác dường như Hồng không chú ý, không buồn bã khi phải xa mẹ. Mặc dù trả lời như vậy nhưng chắc rằng lúc bấy giờ, trong lòng Hồng, hình ảnh và những tình cảm yêu thương mặn nồng đối với mẹ đang trào dâng nghẹn ngào.
Đoạn trích Trong lòng mẹ khép lại nhưng đã gợi lên cho người đọc biết bao điều suy nghĩ: chúng ta sẽ làm gì để những tâm hồn non nớt, ngây thơ luôn được sống trong niềm yêu thương, hạnh phúc, chở che? Chúng ta làm gì để những giọt nước mắt đau đớn, tủi cực không còn lăn dài trên khuôn mặt thánh thiện của các em? Đó sẽ mãi là câu hỏi nhức nhối mà nhà văn gửi đến mỗi chúng ta. -
Chú bé Hồng trong Trong lòng mẹ chính là nhà văn Nguyên Hồng thuở thiếu thời, phải chịu nhiều cay đắng trong cảnh nghèo khổ và mồ côi. Tập hồi kí Những ngày thơ ấu của ông rất xuất sắc. Đoạn văn trích trên đây, dù chỉ phát qua một cảnh nhỏ, cũng cho ta thấy nỗi lòng đau khổ của bé Hồng trong những ngày xa mẹ, sống và niềm sung sướng tột độ trong giây phút gặp lại mẹ - người mẹ yêu quý, đáng thương nhất của mình, bấy lâu chờ mong, khao khát.
Bé Hồng thương yêu mẹ sâu sắc. Mặc dù gần một năm trời sống bơ và đói rách giữa thái độ ghẻ lạnh và nhất là những lời lẽ cay nghiệt của người cô nói xấu mẹ mình, lòng yêu thương mẹ của Hồng không vì thế mà suy giảm. Ngược lại, bé càng thông cảm với mẹ hơn. Hồng đã rất sớm nhận ra cái bất công của cổ tục làm khổ nhục mẹ mình và xót xa mẹ đến “cổ họng nghẹn ứ” muốn “vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiền cho kỳ nát vụn mới thôi” cái cổ tục ấy nếu như nó cụ thể như hòn đá, cục thủy tinh. Lòng thương yêu, kính trọng mẹ đã giúp Hồng trước sau nhận rõ ác ý của người cô cay nghiệt vẫn thấy mẹ mình phải được che chở, phải được sống đàng hoàng giữa cuộc đời. Trong lòng chú bé, nguyên vẹn người mẹ rất đáng yêu, rất đẹp với “gương mặt vẫn tươi sáng, đôi mắt trong và nước da mịn tươi đẹp như thuở còn sung túc”. Trong sâu thẳm cảm giác vẫn nguyên sự ấm áp “mơn man khắp da thịt”, “hơi quần áo hơi thở ở khuôn miệng xinh xắn nhai trầu phả ra thơm tho lạ thường”, sau bấy lâu xa vắng, giờ lại được ngồi gọn trong lòng mẹ. Giây phút thiêng liêng đến xúc động!
Chính vì rất yêu thương mẹ và trong lòng bao giờ cũng chỉ thấy có mẹ là gần gũi, thương xót mình nhất, nên bé Hồng luôn cảm thấy buồn tủi trong cảnh sống nhờ. Trước thái độ miệt thị của người cô, Hồng “im lặng, cúi đầu xuống đất, lòng thắt lại, khóe mắt cay cay”, có lúc “nước mắt tôi đã ròng ròng...” khi người mẹ xiết mãi nỗi đau ấy. Ngay cả lúc bất ngờ gặp mẹ, nỗi mừng của Hồng cũng chứa cái tủi, khiến chú “òa lên khóc, rồi cứ thế nức nở” trong lòng mẹ.
Một chuỗi ngày nén yêu thương, tủi hờn cũng là chuỗi ngày Hồng khao khát muốn gặp mẹ. Nỗi khao khát ấy thể hiện rõ trong bước chạy “ríu cả chân lại" của chú bé. Nỗi khao khát ấy khiến chú bé hình dung đến sự tuyệt vọng ghê gớm của người đi giữa sa mạc gặp ảo ảnh dòng nước, nếu bị nhận lầm dáng mẹ. Cảm giác ấm áp sung sướng tuyệt vời “đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da thịt” khi được trong lòng mẹ, cho ta thấy nỗi khao khát ấy cụ thể, xúc động biết chừng nào.
Phải như bé Hồng trong phút lăn vào lòng mẹ, “được bàn tay mẹ vuốt ve và gãi rôm ở sống lưng cho”, mới cảm thấy hết một nỗi “êm dịu vô cùng” mà chỉ mẹ mới có thể cho ta.
Chúng ta, ít người rơi vào cảnh đời cay đắng ấy, vì có mẹ chăm sóc, che chở. âu yếm. Em cũng may mắn như thế. Chính vì thế mà em cảm thương nỗi đau của thuở nhỏ Nguyên Hồng, nỗi đau của thân phận sống bơ vơ đầy tủi nhục, thèm khát tình thương. Qua tâm trạng của chú bé Hồng, em hiểu hơn những bạn nhỏ vì chiến tranh, vì thiên tai phải mất cha mẹ, họ khổ đau biết chừng nào. Dù xã hội, bà con có cưu mang, nuôi ăn học nhưng làm sao lấp nổi nỗi cô đơn, buồn tủi trong lòng những đứa con xa mẹ, mất mẹ. Nỗi đau ấy đeo đẳng con người suốt một đời. Và cũng suốt một đời, tìm đâu thấy bàn tay quen thuộc vuốt ve âu yếm, lời ngọt ngào, trách mắng mến yêu, ruột thịt chỉ có ở mẹ. Hình ảnh và tâm tư của bé Hồng đã xúc động lòng em, khiến em thấy đầy đủ mọi niềm vui của mình được sống có mẹ là rất quý báu.
-
Nguyên Hồng là một nhà thơ đã có nhiều những đóng góp lớn trong sự nghiệp văn học, và nhiều tác phẩm của ông đã để lại những giá trị to lớn cho người đọc, tiêu biểu đó là trong tác phẩm trong lòng mẹ tác giả đã thể hiện rõ và chi tiết được nhân vật bé Hồng.
Trong lòng mẹ của Nguyên Hồng đã kể lại những hình ảnh và chi tiết đặc sắc trong tình yêu thương của cậu bé đối với mẹ của mình, những hình ảnh được đan xen trong tác phẩm đã thể hiện được rõ ràng và chi tiết trong tác phẩm của mình, những hình ảnh đó đã để lại cho chúng ta những người đọc tác phẩm có những suy nghĩ sâu sắc và vô cùng thấu hiểu về nhân vật Hồng, nhân vật Hồng đã để lại nhiều cảm xúc trong lòng người đọc, từ một cậu bé rất đáng thương cha mất sớm, chỉ sống với người mẹ của mình nhưng rồi hoàn cảnh đưa đẩy, mẹ cậu là một người cũng phải chịu nhiều đau đớn, một cuộc đời của Hồng và mẹ trải qua những đau đớn khi cha của Hồng mất đi, mẹ Hồng bị mọi người ruồng bỏ, nhưng rồi không chịu được những áp lực gia đình nhà chồng mà mẹ Hồng đã phải bỏ nhà ra đi nơi khác kiếm sống bỏ lại Hồng ở lại đây.
Hình ảnh đó đã làm cho Hồng đau đớn khi người mẹ của mình không còn ở bên cạnh mình nữa, những đau đớn khi phải xa người mẹ của mình, nhưng rồi cậu cũng thấu hiểu hiểu được tình yêu của mình dành cho mẹ là vô bờ bến, những đau đớn mà mẹ phải gặp phải thật xót xa những hình ảnh đó đã làm cho cậu bé này có thêm động lực sống, ngày qua ngày Hồng sống với bà cô độc ác, bà ta dùng những lời nói làm cho trái tim của cậu bé này thật đau đớn xót xa, những hình ảnh đó đã mang trong cậu những hoài niệm lớn khi tình yêu mà cậu dành cho người mẹ của mình không có gì có thể thay đổi được, những đau đớn đó làm cho Hồng tủi hổ hơn, nhiều những chi tiết mà thể hiện được tấm lòng của Hồng đối với mẹ là vô cùng lớn lao, nhưng điều đó đã tác động sâu sắc đến con người của Hồng.
Những lời nói chua cay độc ác, nhằm tác động đến cậu bé này là người mẹ của cậu rất xấu thì cậu lại chỉ đau đớn và xót xa cho những hoàn cảnh như vậy, tình yêu thương của cậu với mẹ của mình không chỉ vì mấy lời nói độc ác của bà cô mà có thể thay đổi được, nỗi đau mà cậu bé phải đối mặt đó là những lời hỏi của bà cô: Hồng mày không vào Thanh Hóa chơi với mẹ mày sao, mẹ mày bây giờ giàu có lắm không còn như trước đau, những lời cặn hỏi đó đã làm cho Hồng thêm đau đớn xót xa những nỗi xót xa đó tác động sâu sắc đên Hồng, một cậu bé nhưng đã mang trong mình những trái tim sắt đá những nỗi niềm đó khắc họa sâu sắc qua con người của Hồng, những hình ảnh đó tác động lớn đến những nỗi niềm sâu thẳm nó mang trong trái tim cậu bé này những hoài niệm và đau thương cho người mẹ của mình, cậu hiểu được tại sao người mẹ phải ra đi, những đau đớn này đã rày xé lấy tâm hồn của cậu.
Cậu bé đã thấu hiểu được những gì mà mẹ mình đã phải trải qua, giờ đây khi cậu đã đủ để hiểu được những điều đó thì những lời nói của bà cô độc ác đó không làm cho cậu ngừng thương nhớ và yêu quý người mẹ của mình, những hành động của bà cô chỉ làm cho cậu thấu hiểu được mẹ mình thật đáng thương, những hành động đó đã cho thấy cậu là một người con vô cùng có hiếu yêu thương mẹ của mình, những điều đó đã tạo nên những điều rất tuyệt vời và vô cùng đáng quý. Nhiều những hình ảnh khác cũng thể hiện rất chi tiết và rõ những điều đó, những mong muốn mà tác giả đã thể hiện mang những hình dáng của những tấm lòng vị tha bao dung và thấu hiểu được tấm lòng của người mẹ.
Khi Hồng luôn mong nhớ về người mẹ của mình, cậu tin rằng mẹ mình sẽ trở lại, điều đó thật đúng khi trái tim của người con lúc nào cũng hướng tới mẹ, một trái tim của người con đã thấu hiểu được những điều mà mẹ mình đã phải làm để có một cuộc sống tốt hơn, trong chi tiết tác giả nhìn thấy mẹ mình mờ ảo từ xa, nhưng trực giác đó thật đúng, khi cậu nhìn thấy mẹ mình thì đó là những điều rất tuyệt vời, những điều đã để lại bao nhiêu những rung động thiết tha bởi trong trái tim của Hồng mẹ sẽ quay trở lại, khi nhìn thấy mẹ cảm xúc của Hồng đã thay đổi, Hồng hiểu được những nỗi đau đó của mẹ mình, những nỗi đau đó thầm kín và sâu sắc thấm đẫm trong lòng của người con này, chạy ra ôm mẹ trái tim nghẹn đứng.
Hình ảnh đó đã đủ để chúng ta thấy được những điều rất lớn lao trong tâm hồn của người, chi tiết đã thể hiện được điều đó là những hành động và nó vang vọng đến tâm hồn của người, những hành động của một người có nhiều yêu thương, tình cảm của Hồng đối với mẹ mình là vô bờ bến nó mang dáng vóc của một con người có trái tim nồng hậu và thấu hiểu.
Trong lòng mẹ đã thể hiện rõ tình cảm của cậu bé Hồng đối với người mẹ của mình, những hình ảnh đó đã thể hiện Hồng là một người có tấm lòng yêu thương mẹ của mình vô bờ bến, và bao dung nhân hậu trước hoàn cảnh sống khó khăn.
-
Nhắc đến Nguyên Hồng, chúng ta không thể bỏ qua tập hồi kí “Những ngày thơ ấu”, một tác phẩm trở thành để đời của ông. Trong tác phẩm ấy, hình ảnh bé Hồng hiện ra như chính ngày thơ ấu của tác giả, với những nỗi đau, niềm hạnh phúc mà nhà văn đã từng trải qua. Chính vì vậy, nhân vật ấy hiện lên một cách chân thật, sinh động, vừa đáng thương mà cũng vừa đáng quý.
“Những ngày thơ ấu” được đăng báo lần đầu năm 1938, như một khúc tự truyện của chính nhà văn. Trong tập hồi kí ấy, chương IV mang tên “Trong lòng mẹ” có lẽ là khúc kết ngọt ngào nhất, trong trẻo nhất mà tác giả tưới vào lòng người. Nguyên Hồng xây dựng được hệ thống các nhân vật như người thầy, người cô, người mẹ, và tâm điểm là bé Hồng. Chú bé ấy, đáng thương vì sống trong hoàn cảnh nhiều đắng cay tủi nhục, mà đáng quý vì tấm lòng trẻ thơ vẫn trong sạch, vẫn ấm áp tình yêu thương.
Trước hết, phải nhận ra rằng Hồng là một chú bé phải sống trong hoàn cảnh đầy đau thương. Hồng thiếu thốn tình yêu thương của cả cha lẫn mẹ, đó đã là một nỗi đau lớn. Cha mất, mẹ đi biệt xứ, một mình Hồng sống với gia đình bên nội, những tưởng sẽ được bù đắp tình thương. Nhưng không, bà cô ấy cay nghiệt quá. Bà ta luôn gieo vào tâm hồn kia những lời miệt thị của mẹ em. Bà để em phải ghét mẹ, phải coi thường và tránh xa mẹ. Chính vì vậy mà trong câu nói của bà cô ấy luôn có hàm ý mỉa mai coi thường. Hai chữ “em bé” mà bà ta ngân dài ra, thật ngọt, thật cay độc, như để hạ gục mẹ của Hồng xuống đáy cùng. Hồng liên tục phải nghe những lời ấy, có lẽ nào trái tim của em không tổn thương? Một trái tim luôn yêu thương mẹ sâu sắc, nay lại chịu những vết cứa như thế, khó có thể không nhói lên. Bởi vậy mà có nhiều chi tiết, ta bắt gặp Hồng khóc. Có khi chỉ là cay cay nơi khoé mắt, rồi lại có khi nước mắt đã ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hòa đầm đìa ở cằm và ở cổ. Khi tâm hồn non nớt bị tổn thương, nó không thôi rỉ máu như vậy.
Nhưng trên tất cả, ta vẫn phải nhận ra rằng, tâm hồn em vẫn tràn ngập tình yêu thương, nó làm lành lại những vết thương của em, chính là tình yêu thương mẹ. Vì tình yêu thương ấy quá sâu sắc, mà một bà cô cay nghiệt kia phải năm lần bảy lượt dùng nhiều chiêu trò phá hoại nó. Khi nghe bà cô hỏi có muốn vào thăm mẹ ở Thanh Hoá không, những bâng khuâng dậy lên trong lòng Hồng. Em muốn vào thăm mẹ lắm chứ, em muốn được sà vào lòng mẹ để được ôm ấp vuốt ve. Dường như nỗi nhớ mẹ luôn thường trực ở đó, có thể bùng phát bất cứ lúc nào. Nhưng cũng chính tình yêu mẹ ngăn em lại. Em hiểu rằng, bà cô ấy chỉ đang muốn cay nghiệt, làm hại đến danh dự mẹ em. Em nhất quyết không nói, mặc cho khoé mắt đã cay nồng, mặc cho nước mắt chan chứa. Tượng đài về mẹ trong lòng em chưa bao giờ là sụp đổ. Có những chi tiết ấn tượng về cảm xúc của Hồng. Em thương mẹ đến căm ghét những hủ tục, định kiến mà mọi người đặt điều, “Giá những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ lấy ngay mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kỳ nát vụn mới thôi.”. Những suy nghĩ như thế, nếu không có tình yêu thương, sao có thể bật ra được? Ngay cả khi nghe chuyện mẹ có em bé, em cũng không giận mẹ, mà thương mẹ vì phải đẻ chui lủi ở nơi xứ người, không được hưởng hạnh phúc. Như vậy, qua cuộc nói chuyện với người cô, ta thấy được tình yêu thương mẹ hiện lên thật kiên quyết, qua chính những lời nói và suy nghĩ của Hồng.
Và khi ở trong lòng mẹ, tình thương ấy lại được dịp bùng phát, chảy ra như dòng suối mát. Đi trên đường gặp mẹ, em cứ nghĩ đó là ảo ảnh của một dòng nước trong suốt chảy dưới bóng râm đã hiện ra trước con mắt gần rạn nứt của người bộ hành ngã gục giữa sa mạc. Dường như mẹ là động lực để em vượt qua những tháng ngày đầy tủi nhục này. Hình ảnh so sánh cho thấy tầm quan trọng của mẹ trong cuộc sống của em. Khi đã được sà vào lòng mẹ, những cảm xúc nguyên thuỷ nhất, trong trẻo nhất ùa về. Em oà lên khóc nức nở, khóc cho những nhớ nhung, tủi nhục mà bấy lâu nay em hứng chịu khi xa mạ. Và có lẽ, em khóc vì niềm hạnh phúc. Em hít hà trên cơ thể mẹ, em nhớ lại những ngày thơ bé được áp mặt vào bầu sữa nóng, được mẹ gãi rôm,... đó có lẽ là những giây phút hạnh phúc nhất trong cuộc đời của em. Lúc này, ta thấy bình yên đến lạ lùng, vì con chim tìm thấy tổ, Hồng đã tìm được chốn yêu thương cho chính mình. Qua đoạn trích này, ta mới thấy được tình yêu thương mà Hồng dành cho mẹ ấm áp, cháy bỏng và dạt dào đến nhường nào!
Cảnh ngộ của bé Hồng chợt làm tôi phải sững lại. Hình như trong cuộc sống, vẫn còn vô số những bé Hồng như thế. Hồng hạnh phúc hơn họ, vì ít nhất đã có thể gặp lại người mẹ của mình. Còn trong cuộc sống hiện nay, có những em bé đã thực sự mồ côi cha mẹ, bị cha mẹ bỏ rơi ngay từ khi mới chào đời. Chưa một lần gặp meh, được uống dòng sữa mát lành, được ôm ấp vỗ về, họ thật đáng thương biết nhường nào. Họ đã không được quyền hưởng hạnh phúc trọn vẹn nhất, vì tạo hoá đã cướp đi một phần của họ. Nhưng có điều, tôi tin rằng, những em bé ấy đang nhận được sự giúp đỡ lớn từ xã hội, từ những nhà hảo tâm, để các em có cơ hội được hoàn thiện bản thân. Các em vẫn sẽ là những mầm non của đất nước, đang được tưới táp để khôn lớn và trưởng thành!
Dù hôm nay hay mai sau, bé Hồng vẫn để lại trong trái tim mỗi người một dấu ấn đặc biệt, để nhắc nhở mỗi chúng ta về tình yêu thương mà có thể ta đang dần quên lãng.
-
Trong suốt cuộc đời viết văn của mình, nhà văn Nguyên Hồng đã gặt hái được rất nhiều thành công. Nhưng chính bởi tác phẩm "Những ngày thơ ấu" viết khi ông tròn 18 tuổi, đã đưa ông bước vào làng văn một cách chững chạc và quả quyết. Tác phẩm chính là một tập hồi kí về cuộc đời đầy đau khổ, sóng gió của nhà văn.
Bằng cách dẫn chuyện tài tình, tác giả đưa ta đến với gia đình bé Hồng, một gia đình rất giàu có. Bằng chứng là vào ngày sinh của chú bé, rất nhiều vị có máu mặt đến chúc mừng. Đồ lề, đồ mừng chật ních cả nhà. Tưởng rằng bé Hồng sẽ mãi sống trong cảnh giàu sang, sung sướng, nhưng ngờ đâu cuộc đời em chìm ngập trong đau thương, khổ ải. Có lẽ bất hạnh lớn nhất đối với Hồng là việc cha mẹ em lấy nhau chỉ vì ép buộc, không có hạnh phúc. "Sự trái ngược cay đắng đó tôi đã hiểu rõ rệt và thấm thía ngay từ năm tôi lên bảy, lên tám ". Chính em cũng phải nói thế là gì! Còn cay đắng, xót xa nào hơn khi đứa con biết "người mẹ thỉnh thoảng lại mỉm những nụ cười êm ấm, dịu dàng" nhưng trong lòng thì "luôn luôn giá buốt, đau đớn, phiền muộn". Trong cuộc sống từ bé của Hồng, tình cảm gia đình đã có cái gì đó gượng ép, cha mẹ sống với nhau mà hầu như không có tình cảm, tất cả chỉ vì đứa con chung, chính là Hồng. Và cũng ngay từ bé, Hồng đã nghe những lời đồn không mấy tốt đẹp về mẹ. Việc mẹ đẻ em Quế với ông cao H chứ không phải với thầy. Tất cả những chuyện như thế, không phải ai khác mà chính những người trong gia đình đã gây nên ngọn lửa tò mò trong em. Để đến nỗi trong suốt một thời gian dài Hồng phải sống trong sự dằn vặt, phân vân, không biết ai đúng, ai sai. Rồi khi gia đình sa sút vì cái bàn đèn của bố Hồng, gia đình đã quyết định bán nhà. Tuy rằng đó là một sự mất mát lớn, nhưng Hồng là một chú bé rất giàu tình cảm. Những lời nói ngây thơ của em: "Để con đi học rồi con xây lại nhà cho bà'' đã phần nào làm bớt không khí nặng nề, u ám đang bao trùm lên gia đình. Góp phần vào đấy là khánh kiệt đến cực độ của gia đình Hồng. Mẹ thì buôn bán thua lỗ, thầy thì nghiện thuốc phiện, ngày ngày phải sống ăn bám vào vợ. Vậy đấy! Cái cuộc sống tưởng như sung sướng, nhàn hạ của bé Hồng, giờ trở nên nghèo túng, thiếu thốn. Không những thiếu thốn về mặt sinh hoạt, vui chơi, mà em còn thiếu một gia đình ấm cúng, thực sự trở thành chỗ dựa vững chắc cho tuổi ấu thơ của em. Người cha, chỗ dựa của cả gia đình, nay lại nghiện ngập, hút xác, sống ăn bám. Khốn nạn đến nỗi phải cướp tiền của Hồng để mua thuốc hút, thì không còn lời nào mà nói nữa. Thử hỏi rằng ai mà không xấu hổ, đau đớn khi có một người chồng, một người cha như vậy! Cuối cùng, thì cha Hồng, cả đời sống tối tăm, u uất, nay đã chết trong nghèo nàn, nghiện ngập. Người mẹ khao khát yêu thương đành phải chôn vùi tuổi thanh xuân trong cuộc hôn nhân không lối thoát nay đã vùng lên, chạy thoát khỏi sự cổ hủ của lễ giáo phong kiến đè nặng lên cuộc đời mình, bà đi vào Thanh Hóa, bỏ lại bé Hồng bơ vơ, côi cút giữa sự ghẻ lạnh của những người họ hàng giàu có. Hồng phải chịu những lời lẽ cay nghiệt, xấu xa từ phía họ nội. Hoàn cảnh bắt buộc phải trở thành đứa trẻ lêu lổng, đói rách, luôn khao khát một cuộc sống, một yêu thương đích thực. Vậy mà cái mong muốn đơn thuần, giản đơn ấy mãi mãi không thực hiện được. Đối với Hồng, cái cảnh của nhà thờ đêm Nô-en không có cho em, cho những con chiên bé nhỏ tìm sự che chở, ban phước của Chúa, mà dành cho những ông Tây, bà đầm, những chức dịch, những kẻ quyền quý, khệnh khạng và bệ vệ. Khó khăn lắm em mới lên được vào, để có thể nhìn thấy bàn thờ. Rõ ràng cái xã hội thối tha bẩn thỉu ấy không phải là chỗ đứng của em. Nhưng biết sao được! Chúa đã ấn định cho cuộc đời Hồng một vực thẳm tối tăm, vô đáy.
Cái vực thẳm ấy sẵn sàng nhấn chìm em, nếu em có một phút lỡ làng, quên đi bản chất hồn nhiên ngây thơ, chân thật của mình.
Mặc dù sống trong hoàn cảnh như vậy, nhưng tâm hồn Hồng vẫn cứ là vì sao lấp lánh giữa bầu trời thăm thẳm. Trong tâm tư của em vẫn tồn tại hình ảnh một người cha dịu dàng, ngọt ngào; một người mẹ"chỉ vì sợ hãi những thành kiến cổ hủ mà xa lìa các con ". Chính cuộc nói chuyện giữa Hồng và bà cô đã nói lên điều ấy. Bà cô thì một mực nói xấu, xúc xiểm mẹ Hồng, nhưng tình thương và hình ảnh của mẹ luôn người sáng trong tâm trí Hồng. Và ngay cả chúng ta cũng phải công nhận rằng Hồng rất thông minh, tinh ý. Bởi đối với một đứa trẻ, một năm không được gặp mẹ, không nhận được một lá thư, một lời thăm hỏi âu yếm, không xin mẹ được một đồng quà thì khi bắt gặp câu hỏi "có muốn vào chơi với mẹ hay không? ", với tâm lí ngây thơ, trong sáng sẽ trả lời ngay là "Có" không chút đắn đo. Nhưng Hồng thì lại khác. Em cũng toan trả lời là "có", nhưng "chợt" nhận ra những điều không tốt đẹp trong câu nói ấy nên mới phản bác lại ý muốn dồn nén trong lòng từ bấy lâu nay của mình. Để có được cái "chợt" ấy quả là một quá trình lâu dài, được hình thành từ những việc xảy ra trong cuộc sống mà em quan sát và tiếp thu được. Những động cơ xấu, như bà cô, đã làm mất đi phần nào tính ngây thơ trong Hồng, để đến nỗi mỗi lời nói, mỗi hành động của em đều được cân nhắc, suy nghĩ kĩ càng. Trong em, sự tính toán của người lớn đã trở thành không thể thiếu. Bởi ở cái xã hội của em, mọi người hầu như đều giả dối, ác độc. Đáng thương biết bao! Và tiếng cười của em khi trả lời bà cô: "Cháu không muốn vào" như gây cho người đọc cảm giác: dường như Hồng không chú ý, không buồn bã khi phải xa mẹ. Mặc dù trả lời như vậy nhưng chắc rằng lúc bấy giờ, trong lòng Hồng, hình ảnh và những tình cảm thương yêu mặn nồng đối với mẹ đang trào dâng nghẹn ngào. Đúng vậy! Tất cả diễn biến tâm trạng của Hồng đều trái ngược với lời nói, hành động của em. Điều đó chẳng lẽ không phải là một nỗi đau thầm kín nhưng sâu sắc, giằng xé tâm hồn em hay sao? Đặc biệt tâm trí của bé Hồng cũng được nhà văn miêu tả theo mức độ tăng dần. Lúc đầu Hồng còn cười, sau đó "lòng em thắt lụi, khóe mắt đã cay cay". Chúng ta càng hiểu rõ và càng căm ghét bà cô độc ác bao nhiêu, thì tình thương yêu, cảm thông với bé Hồng lại càng mãnh liệt, đậm đà bấy nhiêu. Vết thương trong lòng em đã không được hàn gắn, nay lại bị người khác đào bới thêm ra nên Hồng như thấy lòng mình thắt lại, quặn đau. Nếu trước kia em cố làm ra vẻ tỉnh bơ thì nay không thể kìm nén được nữa. Em trở về đúng tâm trạng của mình: đau đớn, tủi phận khi thấy cô nói xấu, xúc xiểm người mẹ em hằng tôn quý. Sự đau đớn đó lại càng lên tới tột đỉnh khi Hồng nghe cô nói mẹ mình sinh em bé. Nhưng Hồng đâu trách mẹ, chỉ vì mẹ chưa đoạn tang cha mà đã chửa đẻ với người khác. Chính bởi em cũng hiểu cuộc hôn nhân của cha mẹ hoàn toàn bị ép buộc, không có hạnh phúc. Cho nên việc mẹ gây dựng hạnh phúc với người khác, chẳng qua vì mẹ cố tìm lại thời thanh xuân mà mình đã đánh mất, đã chôn vùi dưới nấm mồ thời gian mà thôi. Duy nhất Hồng chỉ trách mẹ đã không dám đối mặt với cái lề thói, hủ tục phong kiến đã bấy lâu nay chèn ép, vùi dập cuộc sống của mẹ, đã cướp đi hạnh phúc, tổ ấm mà đáng lẽ ra một người như mẹ được hưởng. Nhà văn miêu tả rất thành công điệu cười của Hồng: "Cười dài trong tiếng khóc". Cái tiếng cười ấy chứa đựng biết bao hàm ý. Trước hết đó là một tiếng cười chua xót, tủi phận khi không có một mái ấm gia đình như ai. Sau nữa là tiếng cười căm giận, mỉa mai. Trong cuộc nói chuyện ấy, cuối cùng là hình ảnh bé Hồng "Cổ họng nghẹn ứ, khóc không còn ra tiếng" có lẽ lúc ấy do quá đau đớn nên Hồng mới trở nên yếu đuối, quỵ gục về thể xác. Nhưng trong tâm hồn em, tình thương đối với mẹ vẫn là vô biên. Nhà văn viết: "Giá những cổ tục đã đầy đọa mẹ tôi ấy là một vật có thể như hòn đá, cục thủy tinh hay đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy, nhét vào miệng, nghiến cho kì nát như cám mới thôi". Phải! Em vẫn còn đủ sức để nghiền nát, để xóa bỏ những gì đã đầy đọa mẹ em khổ cực. Chi tiết này chứng tỏ tình cảm của Hồng đối với mẹ thật là bao la, vô bờ bến.
Nếu trong cuộc nói chuyện với bà cô, Hồng đã phải đau đớn, giằng xé bao nhiêu thì nay em lại được đền bù bấy nhiêu. Đấy là sự trở về của mẹ Hồng. Bằng những trực giác hết sức tinh tế nhạy bén của mình, thêm vào đó là những tình cảm nồng nàn Hồng dành cho mẹ, em đã phát hiện rất chính xác người ngồi trên xe kéo là mẹ mình. Nhưng do quá sung sướng, bất ngờ nên Hồng nghĩ "mình đã lầm". Vậy nhưng em vẫn cất tiếng gọi một cách bối rối: "Mợ ơi! Mợ ơi! Mợ ơi!".
Đến đây, ngay cả người đọc cũng hồi hộp và mừng thầm thay cho em. Nếu người đó là mẹ Hồng thì em đã được đền bù thích đáng sau bao ngày sống khốn khổ, bơ vơ. Nhưng nếu không phải thì còn thất vọng nào cho bằng. Chính em cũng nói lên điều đó. Thực sự em nhầm lẫn thì khác nào người bộ hành đi giữa sa mạc mênh mông bắt gặp ảo ảnh của bóng râm và dòng suối. May mắn thay đó chính là mẹ Hồng. Hình ảnh em hồng hộc chạy theo xe tay, đến nơi thì khóc lên nức nở chứng tỏ em rất nhạy cảm. Em tủi thân lắm nên tiếng khóc nghẹn ngào mới bật ra khi gặp mẹ. Đồng thời đó còn là tiếng khóc sung sướng, vỡ òa ra. Và khi nhà văn nói lên tâm trạng của em: "Nhận ra mẹ không còm cõi xơ xác quá như lời cô tôi nói" chúng ta mới vỡ lẽ rằng dù sao Hồng vẫn còn là một đứa trẻ. Em bảo vệ, bênh vực mẹ là thế, nhưng em vẫn chịu ảnh hưởng của lời nói độc địa từ bà cô. Em vẫn nhận rằng mẹ không đến nỗi như cô nói chứng tỏ phần nào em cũng tin những thông tin kia. Nhưng do lúc ấy, niềm sung sướng choáng ngợp tâm trí em nên em có thể quên ngay những lời đồn đại xấu xa về mẹ. Hồng lúc ấy chỉ là một chú bé con, trở về trong lòng người mẹ yêu dấu, rất thơ ngây và trong trắng. Em thực sự phải được hưởng niềm hạnh phúc lớn lao ấy bởi con người, tâm hồn em đích thực là một vì sao lạc lõng, nhỏ bé nhưng sáng chói giữa bầu trời bao la.
Qua toàn bộ tác phẩm, nhất là ở Chương IV, chúng ta có thể học tập được rất nhiều đức tính ở bé Hồng. Mặc dầu lớn lên trong một hoàn cảnh rất khắc nghiệt nhưng Hồng vẫn đấu tranh cho cuộc sống của mình, đấu tranh cho những gì mà mình thấy là lẽ phải, là hợp đạo lí. Chắc chắn sau này hình ảnh cậu bé đáng yêu và đáng thương này mãi ngời sáng trong tâm hồn chúng ta.
-
Viết về đề tài phụ nữ và trẻ em có lẽ nhà văn Nguyên Hồng là một tên tuổi đáng chú ý. Ông đã có nhiều tác phẩm viết về đề tài này, trong đó có hồi kí “Những ngày thơ ấu”. Đặc biệt đoạn trích “Trong lòng mẹ” đã làm nổi bật số phận cay đắng và tình cảm mãnh liệt của Hồng đối với mẹ của mình.
Nói đến hoàn cảnh của Hồng thì thật tội nghiệp. Hồng sinh ra và lớn lên trong gia đình không mấy hạnh phúc. Khi cha mất thì mẹ Hồng đi tha hương cầu thực để lại Hồng ở lại trước sự ghẻ lạnh của hàng xóm. Dù hoàn cảnh của đứa cháu đáng thương như vậy nhưng bà cô của Hồng không hề yêu thương cậu. Mặc dù là cô ruột nhưng bà ta không hề thương Hồng mà luôn cố ý chia rẽ tình cảm mẹ con Hồng.
Một lần, trong cuộc trò chuyện với bà cô, chú bé Hồng đã rất đau khổ khi người cô nói đến mẹ của mình. Hồng biết rằng sau lời nói tươi cười quan tâm đó người cô không hề có ý tốt nào cả. Khi cô hỏi Hồng có muốn vào Thanh Hóa chơi với mẹ không? Hồng chỉ rớt nước mắt nhớ đến mẹ. Hồng nhớ đến gương mặt rầu rầu và sự hiền từ của mẹ. Biết được ý nghĩ xấu xa của cô mình Hồng đã trả lời: “Không! Cháu không muốn vào. Cuối năm thế nào Mợ cháu cũng về”. Khi cô người nói với giọng ngọt xớt: “Mợ mày phát tài lắm có như dạo trước đâu”, lòng cậu thắt lại, khóe mắt cay cay. Hồng thương mẹ vất vả, lam lũ. Người cô nói tiếp "vào mà bắt mợ mày mua sắm quần áo cho và thăm “em bé” thứ”. Hai tiếng “em bé” kéo dài khiến nước mắt Hồng chảy ròng ròng, cười dài trong tiếng khóc. Khi người cô tươi cười kể về người mẹ đáng thương của mình thì cổ họng Hồng như nghẹn ứ lại khóc không ra tiếng. Cậu ước rằng giá như những cổ tục đang đày đọa mẹ cậu kia là những hòn đá hay mẩu thủy tinh thì cậu sẽ vồ ngày đến mà cắn, mà nhai mà nghiến, cho kì vụn nát. Trong cuộc trò chuyện này, ta thấy Hồng đã bộc lộ tình yêu thương mẹ, thương mẹ vất vả, nhớ về người mẹ đáng thương của mình.
Tình cảm mãnh liệt của chú bé được biểu hiện cụ thể khi ngồi trong lòng mẹ. Đó là buổi tan học, thấy dáng dấp của người phụ nữ đang ngồi trên xích lô giống mẹ mình. Hồng đã chạy và đuổi theo mẹ gọi: “Mợ ơi! Mợ ơi!..” Khuôn mặt Hồng lúc đó trán ướt đẫm mồ hôi, Hồng ríu cả chân lại nhảy lên và khóc nức nở. Lúc này, khi được ngồi trong lòng mẹ, Hồng đã sung sướng vô cùng ngắm kĩ gương mặt mẹ “Gương mặt mẹ tôi vẫn tươi sáng với đôi mắt trong và nước da mịn, làm nổi bật màu hồng của hai gò má”. Hồng cảm nhận được sự ấm áp mà bấy lâu nay cậu không thấy. Hồng sung sướng vô cùng và quên đi những lời nói cay độc của bà cô.
Nguyên Hồng đã xây dựng hình tượng chú bé Hồng chịu những khổ đau tủi cực những xen lẫn với bao hạnh phúc khi ngồi trong lòng mẹ. Chúng ta cảm phục Hồng khi đã quên được những định kiến về mẹ của mình để hưởng được hạnh phúc trọn vẹn khi ngồi trong lòng mẹ.
Trong lòng mẹ là chương IV của tập hồi kí Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng với tấm lòng yêu thương mẹ thật tha thiết, hồn nhiên, mãnh liệt trong đoạn trích.
Chương IV của tác phẩm đã miêu tả một cách sinh động "những rung động cực điểm của một tâm hồn trẻ dại" (Thạch Lam) đối với người mẹ, đã bộc lộ sâu sắc lòng yêu thương mẹ của bé Hồng. Hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến, bị trói buộc trong những hủ tục khắt khe từ đó mà đau khổ, bất hạnh triền miên được thể hiện rõ.
Qua tác phẩm, bà mẹ của bé Hồng là người phụ nữ bất hạnh, không hề có hạnh phúc! Bà bị ép gả chồng mà không hề được tự ý lựa chọn theo mơ ước của mình. Càng đau khổ hơn khi chồng bà là người nghiện ngập, bệnh hoạn. Gia đình bên chồng tuy khá giả nhưng ích kĩ, nhiều thành kiến và cổ hủ nên đã ghét bỏ bà. Họa vô đơn chí! Bà góa chồng, gia đình tan nát lại nghèo khó, đành gửi con lại cho gia đình bên chồng để lưu lạc kiếm sống.
Người mẹ tái giá. Gia đình chồng coi đó là hành động tội lỗi nhục nhã vì bà có thai khi chưa hết tang chồng. Bà luôn bị gièm pha, oán trách, mỉa mai. Đến ngày giỗ chồng, cũng như lúc ra đi, bà mạnh dạn trở về để gặp con, ở hai mẹ con lại có những phút giây ngọt ngào êm dịu hiếm hoi.
Như vậy, trước hết ta thấy bà mẹ bé Hồng điển hình cho người phụ nữ xưa, ngoan ngoãn theo thói tục cũ: lấy chồng theo sự lựa chọn của cha mẹ. Xuất giá tòng phu, bà vẫn sống trong khuôn khổ cũ. Khi chồng mất, bà túng quẫn, bà lại "bước đi bước nữa", đã tự cởi trói cho mình để tìm hạnh phúc cho cuộc đời còn lại của mình. Bà đã thể hiện cá tính mạnh mẽ vượt lên thói tục thông thường để tìm hạnh phúc mới.
Người mẹ phải xa đứa con yêu dấu của mình nhưng lúc nào bà cũng thương nhớ con, đau nhói trong tim khi nghĩ đến cảnh con bà bơ vơ, lạc lõng, bị hắt hủi bên gia đình chồng cũ. Yêu con, bà đã chấp nhận mọi lời dị nghị và cách đối xử ghẻ lạnh để về thăm con trong ngày giỗ đầu chồng cũ.
Ta có thể hiểu vì sao bà bặt tăm, không thư từ thăm hỏi, không quà bánh cho con đến gần một năm trời. Bà không muốn con bà phải nghe những lời đay nghiến, mỉa mai. Gặp lại con, bà xúc động, ôm con vào lòng với biết bao yêu thương và nước mắt. Đó là tình mẫu tử vô biên của một người đàn bà bất hạnh, đắng cay.
Thật xót xa khi cảnh đời thật của người mẹ trong hồi ký của nhà văn lại là cảnh đời tiêu biểu cho người phụ nữ việt Nam thời xưa. Lễ giáo phong kiến, hủ tục khắt khe chỉ tạo thêm những dòng lệ thảm cho cuộc đời vốn bất hạnh của người phụ nữ. Mẹ bé Hồng là người dám thoát ra để vươn tới một hạnh phúc, một cuộc sống hợp lí tốt đẹp hơn.
Qua hồi kí về tuổi thơ nhiều cay đắng của Nguyên Hồng, ta hiểu thêm về phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam trong thời đại với những hoàn cảnh thương tâm và ước mơ chân chính, với lòng thương con đậm đà, tha thiết. Nội dung cơ bản của đoạn trích cũng toát lên từ chương hồi kí này là nỗi cay đắng uất nghẹn và tình thương yêu vô bờ bến của bé Hồng đối với người mẹ nhân từ, tần tảo mà cuộc đời chịu nhiều bất hạnh.
Có hai sự kiện đã hóa thành kỉ niệm không thể phai mờ được nhà văn kể lại, ghi lại. Thứ nhất là cuộc trò chuyện của bé Hồng với bà cô; thứ hai là mẹ bé Hồng trở về, cuộc gặp gỡ đầy nước mắt, đầy niềm vui và hạnh phúc. Nhớ lại cuộc trò chuyện với bà cô tức là nhà văn nhớ lại cảnh côi cút của một đứa bé và cảnh ngộ thương tâm của người mẹ hiền từ. Cha bé Hồng mất chưa đầy một năm. Mẹ bé Hồng trở thành người đàn bà bị cái tội bước đi bước nữa, nên bị gia đình chồng ruồng rẫy.
Vì "cùng túng quá" trong cái xã hội đầy thành kiến và hủ tục độc ác, người mẹ khốn khó ấy phải bỏ con đi tha phương cầu thực. Thế là bé Hồng mất cha, lại xa mẹ phải sống nhờ họ hàng, bị hắt hủi tàn nhẫn. Đã một năm, bé Hồng không nhận được thư, không lời thăm hỏi hay một đồng quà của mẹ, bé Hồng nhớ thương mẹ, nhiều khi rơi nước mắt.
Cuộc trò chuyện với bà cô là kỉ niệm không thể quên về một nỗi đau uất nghẹn mà tuổi thơ Nguyên Hồng đã trải qua. Nỗi đau sâu xa của bé Hồng không chỉ là xa vắng mẹ mà còn là nỗi đau xé lòng khi đang nhớ thương mẹ, lại phải nghe những lời nói xấu cay nghiệt về mẹ. Ác ý của người cô bộc lộ rất rõ. Giọng của bà cô lúc ngọt lúc nghiêm nghị tỏ ra ngậm ngùi thương xót. Nhưng thực ra, lời nói của bà như khoét sâu vào nỗi đau của đứa bé tội nghiệp.
Bé Hồng nhận rõ nét mặt khi cười rất kịch của bà cô. Rắp tâm của bà là gieo rắc vào đầu óc đứa cháu những hoài nghi để nó khinh miệt và ruồng rẫy mẹ nó nhưng bé đinh ninh đời nào tình thương yêu và lòng kính mến mẹ tôi lại bị rắp tâm tanh bẩn xâm phạm ngay đến. Tuy còn bé, rơi vào hoàn cảnh éo le như thế, Hồng đã sớm khôn ngoan, cố gắng giấu kín ý nghĩ và tình cảm của mình đối với bà cô. Nhưng cũng vì giấu kín nên nỗi đau và uất nghẹn ấy càng bùng nổ dữ dội.
Nỗi đau khổ sâu xa của chú bé không chỉ là thiếu tình thương mà còn ở chỗ chú thường bị người khác xúc phạm một cách độc ác về mẹ chú. Một người đàn bù bị cái tội là góa chồng, nợ nần cùng túng quá, phải đi tha phương cầu thực, xa cả đứa con yêu dấu.
Bằng cử chỉ cùng giọng nói thân tình tự nhiên nhất, bà cô bảo chú bé hãy đi thăm mẹ và "thăm em bé" (con sau của người mẹ). Đấy là những lời đầy dụng ý: hai tiếng "em bé" mà cô tôi ngân dài ra thật ngọt, thật rõ, quả nhiên đã xoắn chặt lấy tâm cơ thể tôi như ý cô tôi muốn.
Chú bé Hồng từ chỗ im lặng cúi đầu đến nước mắt ròng ròng... Cái cười dài trong tiếng khóc đó cho ta thấy nỗi đau đớn tủi cực và cả nỗi căm giận buộc phải nén lại của chú bé sâu sắc biết chừng nào! Không phải là giọt nước mắt xấu hổ, tủi thân mà là giọt nước mắt của tình thương qua ý nghĩ thương mẹ tại sao phải sinh em bé một cách giấu diếm, trốn tránh.
Dường như chưa cho thế là đủ, bà cô còn tươi cười kể cho chú bé nghe rằng mẹ chú ăn vận rách rưới, mặt mày xanh bủng ngồi cho con bú ở chợ.. Chưa nghe hết câu chú bé đã nghẹn họng khóc không ra tiếng. Chú đau đớn và vô cùng cảm giận những cổ tục đã đày đọa người mẹ hiền từ đáng thương của mình.
Tình thương yêu mẹ của chú bé khi gặp lại mẹ là cảm giác vui sướng thấm thía tột cùng của chú khi được trở về "trong lòng mẹ". Đó là một cảm xúc lớn lao, mãnh liệt dâng trào, một cảm giác hạnh phúc tuyệt vời đã xâm chiếm toàn bộ cơ thể và tâm hồn chú bé.
Thoáng thấy bóng người ngồi trên xe kéo giống mẹ mình, chú bé cuống quýt đuổi theo gọi bối rối: "Mợ ơi! Mợ ơi! Mợ ơi!..." Nếu người quay lại ấy là người khác thì thật là điều tủi cực ghê gớm cho chú bé, khác gì cái ảo ảnh của một dòng nước trong suốt chảy dưới bóng râm đã hiện ra trước con mắt gần rạn nứt của người bộ hành ngã gục giữa sa mạc.
Bé Hồng khát tình mẹ như người bộ hành khát nước đến kiệt sức ở sa mạc. Hình ảnh so sánh cực tả nỗi nhớ mong mẹ tới cháy ruột của bé Hồng. Khát khao càng mãnh liệt nên được gặp mẹ, bé Hồng xiết bao hồi hộp, sung sướng! Chú bé thở hồng hộc, trán đẫm mồ hôi và khi trèo lên xe, chú ríu cả chân lại. Biết bao hồi hộp sung sướng, đau khổ toát lên từ những cử chỉ cuống quýt ấy. Và khi được mẹ kéo tay, xoa đầu hỏi thì chú bé òa lên khóc và cứ thế nức nở.
Dường như bao nhiêu sầu khổ dồn nén không được giải tỏa trong chú bé suốt thời gian xa mẹ dài đằng đẵng lúc này bỗng vỡ òa trong tiếng khóc nức nở, tức tưởi của bé Hồng. Trong ánh mắt thương yêu của đứa con mong mẹ, mẹ chú hiện ra xiết bao thân yêu, đẹp tươi: vẫn tươi sáng với đôi mắt trong và nước da mịn, làm nổi bật màu hồng của hai gò má.
Chú bé cảm thấy ngây ngất sung sướng tận hưởng cảm giác khi được sà vào lòng mẹ, cảm giác mà chú đã mất từ lâu. Tôi ngồi trên đệm xe, đùi áp đùi mẹ tôi, đầu ngả vào cánh tay mẹ tôi, tôi thấy những cảm giác ấm áp đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da thịt. Chú bé còn cảm nhận thấm thía hơi mẹ vô cùng thân thiết đối với chú: Hơi quần áo mẹ tôi và những hơi thở ở khuôn miệng xinh xắn nhai trầu phả ra lúc đó thơm tho lạ thường.
Dường như tất cả các giác quan bé Hồng đều thức dậy và mở ra để tận hưởng cái êm dịu vô cùng của người mẹ. Trong những giây phút say sưa và rạo rực ấy, bé Hồng không nhớ gì, không nghĩ gì, kể cả những lời âu yếm mẹ con nói với nhau, lẫn câu nói cay độc của bà cô hôm nào. Sự xúc động, tình thương yêu của bé Hồng thật sinh động, nồng thắm.
Tình thương mẹ là nét nổi bật trong tâm hồn bé Hồng. Nó mở ra trong mắt ta cả một thế giới tâm hồn phong phú của bé. Thế giới ấy lấp lánh ánh sáng nhân đạo, luôn luôn làm cho chúng ta ngạc nhiên.
Tình thương mẹ đã cho bé Hồng một cái nhìn sắc bén đối với con người và sự việc ngoài đời. Tình thương ấy không gì có thể cản ngăn, chia cắt được và ngày càng trở nên thắm thiết nồng nàn. Qua đó, ta càng hiểu và yêu mến bé Hồng, hiểu sâu hơn tình mẫu tử thiêng liêng. Hồi kí Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng trở thành một áng văn nghệ thuật, vừa có tầm vóc tư tưởng lớn lao, vừa thể hiện chân thật "rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại" -
Bên cạnh nhân vật người mẹ mang nhiều nét đẹp, nhân vật chú bé Hồng hiện lên với biết bao suy nghĩ và cảm xúc, cũng thật là đẹp, đáng chia sẻ, đáng trân trọng. Qua nhân vật này, chúng ta không chỉ cảm nhận những cung bậc tâm trạng của một chú bé rất mực tin yêu mẹ mà còn hiểu cụ thể, sâu sắc những nét đặc trưng của thể văn hồi kí, một thể văn đậm chất trữ tình. Chất trữ tình thống thiết của ngòi bút Nguyên Hồng thể hiện bằng lời kể của nhân vật “tôi” (tức bé Hồng) với những diễn biến tâm trạng theo trình tự thời gian trong hai mối quan hệ: quan hệ với bà cô và quan hệ với người mẹ, rất cụ thể.
Khi nói chuyện với bà cô, bé Hồng chịu bao nhiêu đau đớn, uất ức, nhưng vẫn lòng tin yêu mẹ. Nghe lời nói thứ nhất của bà cô, lập tức trong kí ức chú bé sống dậy hình ảnh người mẹ ở nơi xa, cơ cực, vất vả. Từ cử chỉ “cúi đầu không đáp” đến lúc cười và đáp lại: “năm nay thế nào mợ cháu cũng về” là một phản ứng thông minh xuất phát từ sự nhạy cảm và lòng tin yêu mẹ của chú bé. Chú đã nhanh chóng nhận ra ý nghĩa cay độc của lời bà cô và cố gắng giữ vững tình thương yêu và lòng kính mến mẹ. Nhưng vì tuổi thơ non nớt, nên đến lời nói thứ hai, thứ ba của bà cô, lòng chú bé “càng thắt lại, khóe mắt đã cay cay”, rồi “nước mắt ròng ròng, rớt xuống hai bên mép, rồi chan hòa đầm đìa ở cằm, ở cổ..”. Nỗi đau, sự day dứt đã lên đến đỉnh cao. Trong tâm hồn non nớt ấy, diễn ra một mâu thuẫn: “Tôi thương mẹ tôi và căm tức sao mẹ tôi lại vì sợ hãi những thành kiến tàn ác mà xa lìa anh em tôi để sinh nở một cách giấu giếm trốn tránh như một kẻ giết người lúng túng với con dao vấy máu.”. Lời văn, nhất là hình ảnh so sánh thật dữ dội. Tình thương, niềm tin yêu và một chút ngờ vực đối với người mẹ như đang nổi bão, giằng xé trong lòng chú bé. Nhưng chú vẫn cố kìm nén để giữ vững tình yêu và niềm tin.
Vì thế, bé Hồng đã “cười dài trong tiếng khóc” hỏi lại bà cô về cái tin sét đánh kia. Nỗi uất ức và đau đớn như chuyển sang trạng thái chai lì, bướng bỉnh. Khi nghe bà cô tươi cười kể lể tình cảnh khốn khổ của mẹ mình thì “cổ họng tôi đã nghẹn ứ, khóc không ra tiếng”. Và ý nghĩa táo tợn bất cần, đầy phẫn nộ đã trào sôi như cơn dông tố trong lòng chú bé: “Giá những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kì nát vụn mới thôi”. Lại một câu văn biểu cảm và một hình ảnh so sánh đặc sắc nữa! Nguyên Hồng đã sử dụng các từ cắn, nhai, nghiến..nằm trong một trường nghĩa đặc tả tâm trạng uất ức, căm giận của nhân vật. Đến đây, tình thương và niềm tin đối với mẹ đã xui khiến người con hiếu đễ ấy suy nghĩ sâu hơn, xúc cảm rộng hơn. Từ cảnh ngộ riêng của người mẹ, từ những lời nói kích động của người cô, bé Hồng nghĩ tới những “cổ tục”, căm giận cái xã hội cũ kĩ đầy đố kị, thành kiến độc ác đối với những người phụ nữ gặp hoàn cảnh éo le. Từ câu chuyện riêng của đời mình, Nguyên Hồng đã truyền tới người đọc những nội dung mang ý nghĩa xã hội bằng những dòng văn giàu cảm xúc và có hình ảnh, rất ấn tượng. Qua cuộc đối thoại và những cung bậc cảm xúc của bé Hồng trước bà cô, chúng ta thông cảm với những nỗi đau thấm thía, đồng thời rất trân trọng một bản lĩnh cứng cỏi, một tấm lòng thiết tha của người con rất mực thương và tin yêu mẹ.
Nhờ tình thương và niềm tin ấy, đến khi gặp mẹ, bé Hồng đã nhận được niềm sung sướng, hạnh phúc lớn lao. Như trên ta đã biết, người mẹ của bé Hồng trở về đúng thời điểm quan trọng nhất, đã xua tan mọi đau đớn, dằn vặt trong tâm hồn chú bé. Mới chỉ thoáng thấy một bóng người giống mẹ, chú bé Hồng đã vội vã, bối rối, vừa chạy theo vừa gọi mẹ. Được ngồi lên xe cùng mẹ, chú bé “òa lên khóc rồi cứ thế nức nở” khiến cho người mẹ cũng “sụt sùi theo”. Ba từ òa, nức nở, sụt sùi cùng trường nghĩa, nối nhau miêu tả các dạng thức đặc biệt của tiếng khóc, của những dòng lệ. Đây là âm thanh, là nước mắt của biết bao nỗi niềm, tâm trạng hai mẹ con: tủi phận, tự hào, bàng hoàng, sung sướng. Cảm giác sung sướng của đứa con khi được ngồi kề bên mẹ, được ôm ấp trong lòng mẹ cứ dâng lên từng giây, từng phút. Trước hết, chú được tận mắt nhìn thấy mẹ, “nhận ra mẹ tôi không còm cõi xơ xác quá. Gương mặt mẹ tôi vẫn tươi sáng với đôi mắt trong và nước da mịn làm nổi bật màu hồng của hai gò má.”. Có được một người mẹ như thế, chú bé nào chẳng vui sướng, tự hào, huống chi là bé Hồng, đứa trẻ côi cút từng mong gặp lại mẹ đến cháy lòng, cháy ruột, từng phải đấu tranh với người khác cố ý nói xấu mẹ mình, chia rẽ tình mẹ con. Tiếp sau, chú bé được mẹ ôm ấp “đùi áp đùi mẹ tôi, đầu ngả vào cánh tay mẹ tôi..hơi quần áo mẹ tôi và những hơi thở d khuôn miệng xinh xắn nhai trầu phả ra lúc đó thơm tho lạ thường.”. Chỉ một đoạn văn ngắn mà nhà văn sử dụng dồn đập bao nhiêu động từ, tính từ, nhất là những danh từ cùng trường nghĩa: gương mặt, đôi mắt, nước da, gò má, đùi, đầu, cánh tay, da thịt, khuôn miệng miêu tả vô cùng sinh động niềm hạnh phúc lớn lao tưởng như tới đỉnh điểm của tình mẫu tử. Đây thực sự là những cảm giác “mơn man” ngây ngất, đắm say mà vô cùng êm dịu của quan hệ máu mủ, ruột thịt mà những đứa trẻ bất hạnh không dễ gì có được. Nhà văn đã dựng lại một bức tranh tràn ngập ánh sáng, đường nét rõ ràng, hài hòa, trong đó là những sắc màu tươi tắn, thoang thoảng hương thơm. Đó là một hình ảnh về một thế giới đang bừng nở, hồi sinh, một thế giới dịu dàng kỉ niệm, ăm ắp tình người. Sống trong thế giới đó, chú bé Hồng bồng bềnh trôi trong cảm giác sung sướng, rạo rực, ru mình trong tình mẹ dịu êm, tự hào, hãnh diện được đền đáp bởi tấm lòng người con hiếu thảo thương và tin yêu mẹ đến cháy lòng. Cái cảm giác mình đang bé lại – hay niềm khát khao được bé lại - để làm nũng mẹ, để hưởng sự vuốt ve, chiều chuộng của mẹ cứ lâng lâng, tiếp nối khiến chú bé như đang sống trong mơ vậy. Mọi điều xấu xa, sai lệch mà bà cô gieo vào tâm hồn thơ dại của chú bé bay biến đi hết cả. Xung quanh, từ thế giới bên ngoài vào sâu trong tận cùng cõi tâm linh của chú bé và người mẹ dường như chỉ là niềm hạnh phúc giản dị mà thiêng liêng, hiện thực mà lãng mạn, đầy mộng mơ.
Có thể nói, càng về cuối câu chuyện, ngôn ngữ văn chương càng linh hoạt, sống động, tình cảm người viết càng dạt dào. Đúng là nhà văn đang sông lại những kỉ niệm tuổi thơ của mình để tâm tình, chia sẻ với bạn đọc, cùng bạn đọc thấm thìa những khúc nhạc buồn, vui, cay đắng, ngọt ngào của lòng mẹ yêu con, tình con tin yêu mẹ.